Home » thoisu
Thứ Năm, 26 tháng 3, 2020
Sự lỗi thời và già nua của một “con chíp nhân quyền”
“Báo cáo nhân quyền quốc gia năm 2019” mà Bộ
Ngoại giao Mỹ công bố ngày 11-3 vừa qua gồm 7 phần, đề cập tới tình hình Việt
Nam, trong đó đưa ra những chỉ trích vô căn cứ về tình hình vi phạm nhân quyền
tại Việt Nam. Đáng chú ý, báo cáo này cho rằng vấn đề nghiêm trọng nhất ở Việt
Nam là hạn chế các quyền tự do, bao gồm tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do
internet và tự do tôn giáo. Đây là những luận điệu không mới, trước hết bởi nó
vẫn sa lầy trong cách nhìn nhận “không trúng và không đúng” sự thật. Dù đã “xuống
tông” so với những báo cáo trước đây và thừa nhận những thành tựu bảo vệ quyền
con người của Việt Nam, song báo cáo về tình hình nhân quyền Việt Nam 2019 của
Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn chứa đựng những nhận định thiếu khách quan, được chắp vá bằng
những thông tin không chính xác, phản ánh sai lệch về tình hình thực tế.
Trước
hết, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là những vấn đề trọng tâm trong triển
khai Hiến pháp năm 2013, trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội cũng như
trong thực tiễn đời sống ở Việt Nam. Từ đó đến nay, Việt Nam cũng đã bổ sung, sửa
đổi và ban hành nhiều chính sách, văn bản luật với mục tiêu mọi người dân được
thụ hưởng đầy đủ quyền con người, quyền công dân phù hợp với Hiến pháp.
Chẳng
hạn về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo
và nhiều loại hình tín ngưỡng, với 16 tôn giáo và 13,2 triệu tín đồ tôn giáo.
Quyền tự do tôn giáo chính đáng được nhà nước bảo hộ, các tín đồ tôn giáo được
tự do thực hiện các nghi lễ tôn giáo, tự do thực hành các hoạt động tôn giáo
theo quy định của pháp luật. Mỗi năm, tại Việt Nam có khoảng 8.500 lễ hội tôn
giáo được tổ chức. Tính từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã 3 lần tổ chức thành
công Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc. Mỗi lần như vậy đều có sự tham gia của hàng
nghìn chức sắc, lãnh đạo các giáo hội, nhà nghiên cứu, học giả, hạng vạn tín đồ
Phật tử đến từ nhiều quốc gia trên thế giới. Chính phủ Việt Nam cũng tạo điều
kiện để các tổ chức tôn giáo in ấn, phát hành kinh sách, xuất bản các tạp chí
liên quan tới tôn giáo, từ đó có thể bày tỏ đức tin tôn giáo của mình. Việc
thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc hơn để người
dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình.
Ấy
vậy mà, một lần nữa sự thật lại bị xuyên tạc, bóp méo!
Hay
như trong lĩnh vực thông tin truyền thông, Quốc hội Việt Nam đã sửa đổi, ban
hành nhiều văn bản luật, như: Luật Báo chí sửa đổi (2016); Luật Tiếp cận thông
tin (2013); Luật An ninh mạng (2018)… Ngoài ra còn có nghị định của Chính phủ về
quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng (2018). Những
nỗ lực của Việt Nam trong thúc đẩy quyền sử dụng internet cũng được thế giới
ghi nhận khi luôn đứng trong nhóm các quốc gia có lượng người sử dụng internet
cao trên thế giới. Theo thống kê gần nhất thì hiện nay số người Việt Nam sử dụng
mạng xã hội (MXH) facebook lên tới hơn 60 triệu người. Cùng với đó, hệ thống
báo chí phát triển mạnh mẽ, với sự ra đời của nhiều tờ báo, tạp chí cả bằng tiếng
Việt và tiếng nước ngoài. Người dân thậm chí có thể dễ dàng tiếp cận với đủ loại
thông tin từ các hãng thống tấn, báo chí lớn trên thế giới, như: Reuters,
Kyodo, AFP, NHK… ngay trong chính ngôi nhà của mình. Chỉ riêng những ví dụ đó đủ
cho thấy, cáo buộc mà Bộ Ngoại giao Mỹ nêu trong Báo cáo nhân quyền 2019 rằng
Việt Nam hạn chế quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet là hoàn toàn vô căn cứ
và phi lý, không phản ảnh đúng hiện thực sinh động tại Việt Nam.
Ngày
nay, báo chí là công cụ quan trọng bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của
nhân dân, là diễn đàn ngôn luận của các tổ chức chính trị-xã hội, nhân dân Việt
Nam. Internet nói chung, MXH nói riêng cũng dần trở thành món ăn tinh thần
không thể thiếu-thứ vũ khí sắc bén của những người dùng thông minh, là nơi để họ
đóng góp tiếng nói xây dựng một xã hội văn minh, công bằng, chung tay bảo vệ những
người yếu thế. Không ít những hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược đạo đức và lối
sống của người Việt Nam, như: Tham nhũng, lãng phí, chạy chức, chạy quyền, kinh
doanh bất hợp pháp, cướp của, bảo kê... cho đến lối sống vô cảm, lai căng, sùng
ngoại... đã bị các “tín đồ thường trực” trên mạng phanh phui, lên án. Có thể
nói, đó thực sự là tự do ngôn luận của những người thông thái và trách nhiệm.
Tuy
nhiên, “thế giới ảo” đang vươn mình với con dao hai lưỡi. Internet và MXH nhiều
khi lại tiếp thêm công cụ cho những kẻ đã và đang có âm mưu chống lại Nhà nước
Việt Nam, làm tổn thương các quyền và lợi ích của nhân dân Việt Nam. Thực tế
cho thấy, ngay cả những quốc gia lâu nay luôn ra rả về tự do ngôn luận, tự do
báo chí cũng không ít lần trở thành nạn nhân của sự tự do internet quá trớn, của
những thông tin sai sự thật trên MXH. Nói vậy để thấy rằng, dù là quyền tự do
báo chí, tự do ngôn luận hay quyền gì đi nữa cũng cần đi đôi với nghĩa vụ và
trách nhiệm, luôn phải nằm trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật,
trước hết là nhằm ngặn chặn kẻ xấu xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội cũng như quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người khác. Ở Việt Nam, sự
ra đời của Luật An ninh mạng cũng không nằm ngoài mục đích ấy.
Còn
những kẻ đòi hỏi “nhân quyền hoàn hảo” trên internet, thực chất chỉ có thể là
những kẻ sẵn sàng phá rào luật pháp, sự ổn định của đất nước cũng như những chuẩn
mực đạo đức và văn hóa.
Bàn
về nhân quyền, cũng chẳng cần lớn tiếng rao giảng bằng những câu từ “đao to búa
lớn” mà hãy nhìn vào hành động của Chính phủ và người dân Việt Nam khi đang dồn
mọi nỗ lực phòng, chống dịch Covid-19 trong suốt những ngày qua. Trong cuộc chiến
ấy, cùng với sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị, sự chỉ đạo quyết liệt
của Chính phủ, với tinh thần sẵn sàng hy sinh một số lợi ích kinh tế, nhưng
“không để ai bị bỏ rơi, không ai bị bỏ lại phía sau”, còn có sự tham gia của
toàn quân, toàn dân và các lực lượng chức năng. Không khó để có thể tìm thấy
trên MXH hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam dãi gió dầm mưa
trong rừng để nhường doanh trại, nhường chăn ấm cho các công dân thực hiện cách
ly; cũng khó ai có thể quên, khi Chính phủ quyết định đưa máy bay đến vùng tâm
dịch Vũ Hán (Trung Quốc) để đón công dân về nước, rồi lại quyết định cấp kinh
phí bảo đảm ăn uống cho người cách ly (trong đó có cả những người nước ngoài);
khám, chữa bệnh miễn phí cho các trường hợp không may nhiễm bệnh; rồi hình ảnh
các văn nghệ sĩ, doanh nhân... tích cực quyên tiền, vật chất cùng góp sức với
Chính phủ chống dịch; các chủ khách sạn, khu nghỉ dưỡng tự nguyện biến nơi kinh
doanh của mình thành các điểm cách ly miễn phí. Với người dân, họ thể hiện
trách nhiệm của mình bằng cách tuân thủ các quy định về phòng, chống dịch, phê
phán những hành động trục lợi, “thừa nước đục thả câu” trong giai đoạn cả nước
đang “chống dịch như chống giặc”. Tất cả những việc làm trên đang diễn ra tại
Việt Nam-điều mà nhiều quốc gia trên thế giới chưa làm được. Những hình ảnh
sinh động và thực tế đó là sự hiện thân về nỗ lực cao độ của cả đất nước Việt
Nam trong việc bảo đảm quyền sống-quyền cao nhất của con người?
Cũng
cần phải nói thêm rằng, người dân Việt Nam và cả du khách nước ngoài đồng lòng,
chung sức chống dịch bởi họ đều cảm nhận rõ trong thời điểm nước sôi lửa bỏng
này, họ được chăm sóc với những điều kiện tốt nhất có thể. Tính mạng và sức khỏe
của họ và những người xung quanh được Chính phủ và toàn xã hội ưu tiên hàng đầu.
Sự thật như vậy, vì cớ gì mà không thừa nhận?
Một
điều cần nói rõ nữa là: Báo cáo nhân quyền Việt Nam 2019 không chỉ vi phạm quy
định về cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác đã được đề cập
trong Hiến chương Liên hợp quốc mà nguy hại hơn nó có thể tiếp tục trở thành
cái cớ để các thế lực cơ hội chính trị, thù địch với Việt Nam, các tổ chức phản
động tìm cách cản trở bước phát triển chung của quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.
Để
cho ra đời một chiếc điện thoại ưu việt và theo kịp thời đại, các hãng công nghệ
của Mỹ luôn phải tìm tòi phát triển những con chíp có tốc độ xử lý nhanh nhất,
mạnh nhất. Báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ cũng vậy, rất cần cách nhìn
nhận sát với những bước phát triển ở Việt Nam thay vì tiếp tục dựa vào đánh giá
chậm chạp từ một “con chíp nhân quyền” đã quá già nua và lỗi thời.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét