Home » biendao
Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2020
Tăng cường thực thi UNCLOS và duy trì trật tự pháp lý ở Biển Đông
Là
một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3.260km, với hàng nghìn hòn đảo lớn
nhỏ, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam luôn đề cao mục tiêu,
tôn chỉ và nỗ lực thực thi các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật
Biển (UNCLOS) năm 1982. Việt Nam đồng thời kiên trì, kiên quyết yêu cầu và kêu
gọi các quốc gia khác tuân thủ các nghĩa vụ của UNCLOS, qua đó đóng góp vào bảo
vệ trật tự pháp lý trên biển, xây dựng Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình
và mang lại thịnh vượng cho tất cả các quốc gia trong khu vực.
Là
thành viên Công ước Luật Biển 1982, diện tích các vùng biển và thềm lục địa mà
tại đó Việt Nam được hưởng những quyền lợi đối với vùng biển và tài nguyên theo
quy định của Công ước là khoảng gần 1 triệu km2, gấp ba lần diện tích lãnh thổ
đất liền. Việt Nam cũng có chủ quyền không tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa, trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của luật
pháp quốc tế.
Để
thể hiện trách nhiệm và thiện chí của một quốc gia thành viên Công ước, trong
những năm qua, Việt Nam luôn tôn trọng và thực thi đầy đủ các nghĩa vụ theo
Công ước, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, vận dụng các quy định
của Công ước trong xác định các vùng biển và phân định ranh giới biển với các
nước láng giềng, quản lý và sử dụng biển, đồng thời hợp tác với các nước trong
các lĩnh vực biển phù hợp với các quy định của Công ước theo hướng bảo tồn và sử
dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển, phục vụ phát triển bền vững.
Phù
hợp với các quy định của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã ban hành Luật Biển
Việt Nam năm 2012 nhằm thống nhất quản lý việc hoạch định, sử dụng, thăm dò,
khai thác tài nguyên biển và quản lý các vùng biển, thềm lục địa, hải đảo của
Việt Nam, cũng như việc giải quyết tranh chấp trên biển giữa Việt Nam và các nước
láng giềng. Đây được coi là bước tiến quan trọng trong việc chuyển hóa các quy
định của Công ước Luật Biển vào hệ thống pháp luật trong nước, tạo thuận lợi
cho việc quản lý thống nhất về biển và phát triển kinh tế biển Việt Nam.
Cùng
với việc ban hành Luật Biển, Quốc hội Việt Nam cũng đã thông qua Bộ Luật Hàng hải
2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2017, điều chỉnh các hoạt động giao thông hàng hải
trên biển, chế độ ra vào các cảng biển Việt Nam. Việt Nam cũng thông qua nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến quản lý và sử dụng biển và đại
dương như Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (2015), Luật Bảo vệ môi
trường (2014), Luật Biên giới quốc gia (2003), Nghị định 143/2017/NĐ-CP ngày
14/12/2017 của Chính phủ quy định bảo vệ công trình hàng hải, Nghị định
71/2015/NĐ-CP ngày 03/9/2015 của Chính phủ về quản lý hoạt động của người và
phương tiện trong khu vực biên giới biển.
Với
chủ trương nhất quán thông qua các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp,
bất đồng trên biển, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả
Công ước Luật Biển 1982 để giải quyết các tranh chấp về phân định biển với các
nước láng giềng, trong đó luôn đề cao nguyên tắc công bằng để tìm ra giải pháp
hợp lý. Theo đó, Việt Nam đã ký với Thái Lan Hiệp định về phân định biển ngày
09/8/1997; ký với Trung Quốc Hiệp định và phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp
tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000; ký với Indonesia Hiệp định về
phân định thềm lục địa ngày 26/6/2003.Thực tiễn đàm phán, ký kết các văn kiện
nêu trên đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo các quy định của Công ước Luật Biển
1982, đóng góp và làm phong phú thêm luật pháp quốc tế về phân định biển. Trên
cơ sở các quy định của Công ước, Việt Nam đang thúc đẩy đàm phán phân định và hợp
tác cùng phát triển tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc; đàm phán
phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia và đàm phán về các vấn đề trên
biển với các nước láng giềng khác.
Cùng
với đó, Việt Nam luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, bao gồm Công
ước Luật Biển 1982. Khi bàn về vấn đề tranh chấp Biển Đông trên các diễn đàn quốc
tế, Việt Nam kiên trì yêu cầu “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật Biển năm 1982”, coi đây như một nguyên tắc để giải quyết và xử lý
các tranh chấp liên quan đến biển đảo. Việt Nam đã nỗ lực đưa nguyên tắc này
vào các văn kiện của ASEAN, kể cả “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển
Đông” (DOC); “Tuyên bố 6 điểm ngày 20/7/2012 của ASEAN về Biển Đông”; dự thảo Bộ
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC, trong đàm phán Việt Nam và các nước thống nhất
nguyên tắc COC phải sử dụng UNCLOS làm cơ sở). Với nỗ lực của Việt Nam, nội
dung “căn cứ luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 để
tìm ra giải pháp cơ bản lâu dài cho các tranh chấp tại Biển Đông” đã được đưa
vào “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển
Việt Nam – Trung Quốc” ký ngày 10/11/2011.
Thực
tế đang cho thấy những bằng chứng sinh động thể hiện thiện chí, sự tích cực,
quyết tâm và cam kết thực tế của Chính phủ Việt Nam đối với việc tôn trọng và
thực thi các quy định của Công ước Luật Biển 1982, đồng thời thể hiện nỗ lực và
chủ trương nhất quán của Việt Nam trong việc hợp tác giải quyết các tranh chấp,
bất đồng trên biển bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế,
trong đó có Công ước Luật Biển 1982.
Việc
Trung Quốc ngang ngược tuyên bố chủ quyền đối với một số thực thể trên Biển
Đông rõ ràng là hành vi bất chấp luật pháp quốc tế, không hề tôn trọng lịch sử
và thực tiễn, thách thức cộng đồng khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó, việc
tôn trọng và tuân thủ đầy đủ Công ước Luật Biển 1982 càng có vai trò quan trọng
trong duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải ở khu vực.
Việt Nam mong muốn các quốc gia liên quan tôn trọng nguyên tắc thượng tôn pháp
luật trên các vùng biển và đại dương, cùng thực thi tốt Công ước Luật Biển năm
1982, cùng xây dựng Biển Đông là vùng biển hòa bình và mang lại thịnh vượng cho
tất cả các quốc gia trong khu vực. (Nguồn: VOV)

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét