Quan hệ Việt Nam - Đức không ngừng phát triển trên mọi lĩnh vực
QĐND - Năm 2020, Việt Nam và Đức kỷ niệm
trọng thể 45 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao. Trải qua nhiều biến động lịch
sử, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Đức trong hơn 4 thập kỷ qua không ngừng
phát triển sâu rộng, hiệu quả và thực chất trên mọi lĩnh vực. Kỷ niệm ngày thiết
lập quan hệ ngoại giao là dịp để chúng ta ôn lại chặng đường đã qua và cùng
nhau vững tin vào tương lai tươi sáng của quan hệ Việt-Đức.
Việt Nam và Đức chính thức thiết lập
quan hệ ngoại giao vào năm 1975 nhưng sợi dây liên kết giữa hai dân tộc ở hai lục
địa Á-Âu xa cách đã hình thành và tồn tại từ rất lâu trước đó. Ngay từ giữa thế
kỷ 19, các vị sứ thần đầu tiên của Đức đã được cử đến Sài Gòn để kết nối bang
giao hai nước. Trong hành trình đi tìm đường giải phóng dân tộc cách đây khoảng
một thế kỷ, người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã từng dừng chân ở Đức.
Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp tục gieo mầm và dày công vun đắp cho mối
quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam-Đức đơm hoa, kết trái. Việt Nam là
quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á sở hữu nhịp cầu nhân văn đặc biệt kết nối với Đức.
Đó là đội ngũ đông đảo hơn 100.000 học sinh, sinh viên và lao động Việt Nam đã
từng học tập, làm
việc tại Đức từ những năm 50 của thế kỷ trước, nắm vững ngôn ngữ và văn hóa Đức.
Cùng với cộng đồng trên 170.000 người Việt Nam, gồm nhiều thế hệ, hội nhập sâu
rộng và có những đóng góp tích cực vào đời sống kinh tế-xã hội Đức, họ đã kết
thành một khối tài sản chung vô giá, trở thành chất xúc tác không thể thiếu cho
sự phát triển đa dạng và độc đáo của quan hệ hai nước.
Trên chặng đường 45 năm qua, quan hệ Việt-Đức
luôn thể hiện sức sống bền bỉ và mạnh mẽ nhờ sự hợp tác chặt chẽ về mọi mặt
chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa... Trao đổi đoàn diễn ra sôi động ở cấp
cao và các cấp, bộ, ngành, địa phương. Các hoạt động đối ngoại Đảng, Quốc hội,
hợp tác và giao lưu nhân dân giữa hai nước đang ngày càng gia tăng... Sự đồng
thuận về ý chí và các văn kiện đạt được qua các chuyến thăm của lãnh đạo cấp
cao hai nước là đòn bẩy quan trọng cho triển khai hợp tác sâu rộng giữa hai nước.
Đặc biệt, Tuyên bố Hà Nội về việc thiết lập đối tác chiến lược Việt Nam-Đức được
ký nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Đức Angela Merkel vào tháng 10-2011
là dấu mốc quan trọng định hình quan hệ Việt Nam-Đức phát triển mạnh mẽ trong gần
10 năm lại đây. Nhiều cơ chế hợp tác như cuộc họp Nhóm Điều hành chiến lược, Đối
thoại cấp cao về kinh tế, Tham vấn Chính phủ về hợp tác phát triển, Đối thoại về
nhà nước pháp quyền, Ủy ban hợp tác khoa học-công nghệ... đã được kích hoạt và
mở rộng, đảm bảo tính hiệu quả và chất lượng của mọi mặt hợp tác.
Trên nền tảng vững chắc của quan hệ
chính trị, hợp tác giữa hai nền kinh tế có độ mở lớn, nhiều tiềm năng và đặc
tính bổ sung cho nhau diễn ra rất năng động. Trong nhiều năm liền, Đức luôn là
đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam ở châu Âu. Kim ngạch thương mại hai nước
kể từ năm 2010 đến nay đã tăng gấp đôi, đạt trên 10 tỷ USD với mức tăng trung
bình trên 10%/năm. Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt
Nam (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-EU (EVIPA) đi vào triển khai, hứa
hẹn sẽ tạo ra những cơ hội mới rất to lớn cho doanh nghiệp hai nước về trao đổi
thương mại và đầu tư. Là nước đứng thứ 18 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu
tư vào Việt Nam, hiện hơn 300 doanh nghiệp Đức đang triển khai 361 dự án hợp
tác trong các lĩnh vực cơ khí, chế tạo máy, logistics, hóa chất, năng lượng tái
tạo... với tổng giá trị FDI hơn 2 tỷ USD. Ở chiều ngược lại, nhiều nhà đầu tư
Việt Nam đã chọn “đầu tàu kinh tế” của EU để “gửi vàng”. Đến nay, Việt Nam đã
có 35 dự án đầu tư vào Đức với trị giá hơn 250 triệu USD trong các lĩnh vực tài
chính-ngân hàng, tin học, nhà hàng, khách sạn... Trong bối cảnh cùng hướng tới
nền kinh tế tương lai với nền tảng là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt
Nam mong muốn cùng Đức khai thác những dư địa và tiềm năng hợp tác còn rất lớn
trong những lĩnh vực này.
Cùng với thương mại-đầu tư, hợp tác phát
triển cũng là một thành tố quan trọng trong quan hệ hai nước. Việt Nam luôn
trân trọng và không bao giờ quên sự ủng hộ quý báu của Chính phủ và nhân dân Đức
dành cho Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong ba thập
niên lại đây, trên tinh thần đối tác tin cậy và hiệu quả, với nguồn ODA trị giá
hơn 2 tỷ USD, Đức luôn đồng hành cùng công cuộc phát triển của Việt Nam thông
qua các chương trình hợp tác lớn như cải cách kinh tế, phát triển lâm nghiệp,
xây dựng Chiến lược tăng trưởng xanh, Luật Đào tạo nghề... Những bài học chia sẻ
kinh nghiệm về mô hình phát triển, khai thác năng lượng tái tạo, bảo vệ môi trường,
hệ thống đào tạo nghề song hành nổi tiếng thế giới của Đức... là hành trang quý
giá góp phần giúp Việt Nam hoàn thiện các cơ chế chính sách, phát triển kinh tế-xã
hội, bảo tồn thiên nhiên và đào tạo nguồn nhân lực..., từ đó góp phần hỗ trợ Việt
Nam hoàn thành trước thời hạn những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và đang
tiến tới các mục tiêu phát triển bền vững.
Tiếp nối và phát huy truyền thống giao
lưu nhân dân tốt đẹp giữa hai nước, các mặt hợp tác giáo dục, nghiên cứu khoa học,
pháp luật, văn hóa-du lịch... cũng ghi nhận những thành tựu nổi bật. Dự án “hải
đăng”-Trường Đại học Việt-Đức, sắp được hoàn thành với quy mô tiếp nhận 12 ngàn
sinh viên, hoạt động theo mô hình đại học của Đức, hứa hẹn sẽ trở thành “thỏi
nam châm” thu hút đông đảo sinh viên trong và ngoài nước theo học. Việc giảng dạy
ngôn ngữ tiếng Việt, tiếng Đức trong các trường phổ thông ở hai nước được khuyến
khích và cùng với các hoạt động giao lưu văn hóa sôi động như liên hoan phim,
hòa nhạc, triển lãm sách, tranh, ảnh, ẩm thực, giao hữu thể thao... đưa người
dân Việt Nam và Đức đến gần với nhau hơn. Đường bay thẳng giữa hai nước được mở
hơn 15 năm trước đây đã trở thành cầu nối chuyên chở hàng chục ngàn lượt khách
Đức sang du lịch và làm việc tại Việt Nam, bà con kiều bào về thăm quê hương
cũng như con số tương tự người Việt Nam sang Đức du lịch, học tập và làm việc mỗi
năm.
Ở bình diện đa phương, trên tinh thần đối
tác chiến lược, Việt Nam và Đức luôn phối hợp chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau tại
các diễn đàn khu vực và quốc tế như ASEAN-EU, ASEM, Liên hợp quốc (LHQ)... Chia
sẻ quan điểm và tầm nhìn chung về chủ nghĩa đa phương, trật tự ổn định dựa trên
luật lệ, bảo vệ luật pháp quốc tế, bảo vệ môi trường, Việt Nam và Đức thường
xuyên tìm được tiếng nói chung trong việc giải quyết các thách thức khu vực và
toàn cầu. Trong năm 2020, “trọng trách kép” được đặt lên vai hai nước: Vừa là thành viên không thường
trực Hội đồng Bảo an LHQ, Việt Nam đồng thời giữ cương vị Chủ tịch Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á-ASEAN còn Đức đảm nhận vai trò Chủ tịch luân phiên của EU
vào 6 tháng cuối năm. Hai bên đã nhất trí đẩy mạnh hợp tác, tranh thủ thời cơ
và vận dụng một cách tích cực, sáng tạo để thúc đẩy tăng cường kết nối Á-Âu,
mang lại hòa bình, ổn định ở hai khu vực, đóng góp cho môi trường an ninh và
phát triển trên thế giới. Việc đề xuất các sáng kiến hợp tác trong phòng, chống
Covid-19 như tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN-EU do Việt Nam chủ trì
và Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Liên minh vì chủ nghĩa đa phương do Đức đồng
khởi xướng là minh chứng sống động cho tinh thần hợp tác ấy.
Điểm lại những trang sử quan hệ hai nước
hơn bốn thập kỷ qua, chúng ta thật vui mừng và tự hào về sự phát triển năng động,
thực chất của quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam-Đức. Những kết quả đáng khích
lệ và tiềm năng hợp tác rất to lớn là những động lực quan trọng cho sự hợp tác
sâu rộng, mạnh mẽ và toàn diện hơn của hai nước trong những thập niên tới, phù
hợp với lợi ích và mong muốn của chính phủ và nhân dân hai nước, vì một thế giới
hòa bình, ổn định, phồn vinh. Với những nỗ lực, quyết tâm của hai bên và trên hết
là tình hữu nghị bền chặt của hai dân tộc, tôi tin rằng mục tiêu mà hai nước
cùng hướng tới chắc chắn sẽ sớm trở thành hiện thực.
PHẠM BÌNH MINH, Phó thủ tướng, Bộ trưởng
Bộ Ngoại giao

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét