Để Đảng mãi trường tồn cùng dân tộc (phần 3)
III. Quyết tâm và hành động của chúng ta
Thực tiễn đã khẳng định, sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Vì thế, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc càng phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt,
trước bối cảnh tình hình quốc tế, trong nước có những thuận lợi, khó khăn, thời
cơ và thách thức đan xen hiện nay đặt ra nhiều vấn đề mới, phức tạp đòi hỏi Đảng
cần phải xử lý, vượt qua. Công tác xây dựng Đảng trong những năm qua đã đạt được
kết quả quan trọng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; phương thức
lãnh đạo của Đảng có nhiều đổi mới, hiệu lực, hiệu quả; công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật Đảng được nâng cao, v.v. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế,
khuyết điểm, làm cho Đảng ta chưa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm giảm lòng
tin, tạo ra nỗi niềm băn khoăn, trăn trở của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ. Do đó, thời gian tới, không có cách nào
khác, Đảng ta phải tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện trên
các mặt với tinh thần chủ động, tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ hơn nữa; thực
hiện tốt phương châm “gắn xây với chống, lấy xây là chính, chống là quan trọng,
xây làm tiền đề cho chống và chống tạo cơ sở để xây tốt hơn”, coi đây là nhiệm
vụ then chốt, vấn đề sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. Trong đó, tập trung
thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau.
1. Tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu
quả các nghị quyết, chỉ thị, quyết định về công tác xây dựng Đảng
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
căn dặn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta:“Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân”1. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người và sớm nhận ra những nguy cơ làm
xói mòn bản chất cách mạng, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết
về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đó là kết tinh trí tuệ tập thể, thể hiện quyết tâm
chính trị rất cao của Đảng ta trong việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ
sức lãnh đạo đưa đất nước phát triển, đi lên. Do đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp
phải luôn quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, có hiệu quả các chỉ
thị, nghị quyết, chủ trương về công tác then chốt, đặc biệt quan trọng này, trọng
tâm là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đồng thời,
tổ chức những đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong các cấp ủy, tổ chức đảng,
trong đó, chú trọng phát huy vai trò nêu gương của cán bộ lãnh đạo, chủ trì các
cấp. Quá trình thực hiện, cần làm triệt để, làm trên trước, dưới sau, cấp ủy
trước, đảng viên sau; gắn kết chặt chẽ giữa thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 với
Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng
kết, đánh giá kết quả thực hiện, rút ra những bài học kinh nghiệm, khắc phục
tình trạng “đánh trống, bỏ dùi”, “phát nhưng không động”, “trên nóng, dưới lạnh”.
Cùng với đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển tư
duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng; chủ động nắm bắt diễn biến
tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu
quả.
2. Thực hiện tốt công tác cán bộ, xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự là “công bộc” của
nhân dân
Đây là “khâu then chốt của then chốt”
trong công tác xây dựng Đảng và là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, công việc hệ
trọng của Đảng. Những năm qua, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp về
công tác cán bộ và được thể chế, cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy trình,
bảo đảm dân chủ, chặt chẽ nhằm lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất, đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
giữ các vị trí lãnh đạo, nhất là người đứng đầu. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện vẫn còn những thiếu sót cần khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền,
chạy tuổi, chạy bằng cấp chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách hiệu quả. Việc sắp
xếp, bố trí, bổ nhiệm cán bộ ở nhiều nơi vẫn đảm bảo “đúng quy trình” nhưng
chưa đúng người, đúng việc. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng
thực chất, dẫn đến có cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao thuộc diện Trung ương quản
lý, không những không hoàn thành nhiệm vụ mà còn vi phạm pháp luật, gây hậu quả
nghiêm trọng, phải thi hành kỷ luật2. Đây là thực tế hết sức đau lòng, vừa mất
cán bộ, vừa ảnh hưởng đến uy tín, thanh danh của Đảng, đúng như lời Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Thật đau xót, nhưng không thể
không làm, không có cách nào khác! Tất cả là vì sự nghiệp chung của Đảng, của đất
nước, của nhân dân. Đây là bài học sâu sắc, bài học đắt giá cho tất cả chúng
ta”.
Để khắc phục tình trạng này, trước hết,
cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong công
tác cán bộ. Một trong những nguyên nhân của nạn chạy chức, chạy quyền,... là do
cơ chế chưa đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực, nhất là đối với người đứng
đầu, dẫn đến tha hóa về quyền lực, thoái hóa, biến chất, thao túng tổ chức, tạo
“đất tốt” cho những “hạt giống kém” nảy nở. Vì thế, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp
từ Trung ương đến địa phương, cơ sở phải nắm chắc tình hình, kịp thời có giải
pháp hữu hiệu để kiểm soát quyền lực, “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế, luật
pháp”, bảo đảm mọi quyền lực đều phải được kiểm soát bằng cơ chế, quyền hạn phải
gắn với trách nhiệm. Thực hiện tốt việc kiểm soát bằng thể chế kết hợp với kiểm
soát bằng đạo đức; đề cao dân chủ, công khai, minh bạch, xóa bỏ quan niệm xem
công tác cán bộ là “bí mật, nhạy cảm” mà cần thực hiện nghiêm quy định về tiêu
chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý. Tiếp tục hoàn thiện quy chế, quy định
ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm cá nhân, tập thể trong việc giới thiệu, tiến cử
nhân sự cán bộ. Khi đã dân chủ, công khai, minh bạch sẽ không còn cửa nào để
“chạy” và sẽ hạn chế tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ. Đồng thời,
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, kiên quyết xử lý sai phạm,
không có “vùng cấm”. Cấp ủy, người đứng đầu phải tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát việc thực hiện công tác cán bộ của cơ quan, đơn vị thuộc quyền. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần nêu cao trách nhiệm, thực
hiện tốt quyền giám sát, phản biện xã hội. Đặc biệt, cần có cơ chế để nhân dân
tham gia giám sát, phản biện, góp ý kiến xây dựng hệ thống chính trị các cấp,
nhất là trong công tác cán bộ.
Cùng với tăng cường công tác giáo dục,
quản lý, rèn luyện, kiểm tra, giám sát, làm tốt khâu quy hoạch, đánh giá, sàng
lọc cán bộ của cấp ủy, tổ chức đảng, bản thân mỗi cán bộ, đảng viên, công chức
phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, đề cao tính nêu
gương, “tự soi, tự sửa”, tránh xa cám dỗ vật chất, tham vọng quyền lực, thực hiện
tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời
sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
3. Tăng cường quan hệ mật thiết với nhân
dân, có cơ chế phù hợp phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng
Giữ mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng
với quần chúng nhân dân là một nguyên tắc trong xây dựng Đảng. Đó cũng là nguồn
gốc chủ yếu tạo nên sức mạnh của Đảng, của dân tộc, một trong những điều kiện
quan trọng để Đảng giữ vững sứ mệnh lãnh đạo dân tộc. Thực tiễn lịch sử hơn 90
năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó. Hiện nay, đã và
đang xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực tác động đến mối quan hệ giữa Đảng với
Nhân dân, nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
biểu hiện quan liêu, cửa quyền, hách dịch, xa dân,... làm giảm niềm tin của
Nhân dân với Đảng. Do đó, hơn bao giờ hết phải coi trọng xây dựng, tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng với Nhân dân. Trước hết, phải dựa vào dân, phát huy vai trò của
nhân dân trong xây dựng hệ thống chính trị, nhất là công tác xây dựng Đảng. Thực
tế cho thấy, có nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực, sai phạm của cán bộ là do
nhân dân phát hiện. Cho nên cần phải dựa vào nhân dân, phát huy vai trò của
nhân dân trong mọi hoạt động của cấp ủy đảng, chính quyền, đặc biệt là trong
công tác xây dựng Đảng. Những nhận thức cho rằng: xây dựng Đảng là công việc của
riêng Đảng, trực tiếp là của tổ chức đảng, đảng viên, chứ không phải của quần
chúng,…là nhận thức lệch lạc, thiển cận. Với lối tư duy, tầm nhìn hạn hẹp, họ
đã không thấy được vai trò của quần chúng nhân dân trong công việc hệ trọng này
của Đảng. Tuy nhiên, chỉ dựa vào nhân dân thôi chưa đủ, mà phải có cách dựa - tức
là cơ chế phù hợp thì mới hiệu quả. Không ít người dân có thông tin, có khả
năng tham gia đóng góp vào công tác xây dựng Đảng, nhưng họ không có điều kiện
hoặc vì lý do nào đó mà không thể tham gia. Do đó, phải tạo điều kiện để họ có
thể tham gia, hay nói cách khác là phải có cơ chế phù hợp để khuyến khích,
động viên nhân dân tham gia. Cùng với cơ chế, cần phải tiếp tục thực hiện tốt
“Quy chế Dân chủ cơ sở”. Đặc biệt, phải quán triệt, thực hiện nghiêm Quyết định
số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về Quy chế giám sát
và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội;
Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị quy định về việc Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp
ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế, quy chế và
tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, chất vấn,
báo cáo giải trình trong các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương, cấp ủy, ban
thường vụ cấp ủy các cấp, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
Bên cạnh đó, cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền cần tăng cường triển khai công
tác dân vận, phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội, của nhân dân, báo chí và công luận với phương châm: “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp phải
thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tiếp công dân để tiếp nhận thông tin, lắng
nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất
là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng và thực hiện quy định
về việc lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cơ quan, cán bộ,
công chức trực tiếp giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp; có hình
thức xử lý đối với những tổ chức, cá nhân có chỉ số hài lòng thấp.
4. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại chiến
lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch gắn với phòng, chống “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”
“Diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau.
Trong đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vừa là thủ đoạn, vừa là mục
tiêu của chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch đang đẩy mạnh
thực hiện ở nước ta. Vì thế, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn
biến hòa bình” gắn với ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ là nhiệm
vụ thường xuyên cấp bách, mà còn là giải pháp chiến lược lâu dài đối với sự
nghiệp cách mạng nói chung, công tác xây dựng Đảng nói riêng. Theo đó, cấp ủy,
tổ chức đảng các cấp phải không ngừng nâng cao nhận thức, xác định quá trình đấu
tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” phải
được tiến hành thường xuyên, liên tục với tinh thần tích cực, chủ động, quyết
liệt để vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, định hướng
nhận thức, tư tưởng, hành động đúng đắn cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đặc
biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, cần phải quán triệt
sâu sắc quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng, nhất là tính chất đan xen, phức
tạp của nó để có sự nhận biết đúng đắn, đảm bảo vừa hợp tác, vừa đấu tranh một
cách hiệu quả nhất.
Cùng với đó, thường xuyên nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; phát huy vai trò của
các đoàn thể chính trị - xã hội, quần chúng nhân dân; đẩy mạnh hoạt động đấu
tranh của các lực lượng, bằng nhiều biện pháp, cách làm sáng tạo, hiệu quả, tạo
nên sức mạnh tổng hợp làm thất bại âm mưu, hành động chống phá của các thế lực
thù địch, phản động, cơ hội chính trị, giữ vững “trận địa” tư tưởng của Đảng. Cần
nhận thức rõ cuộc đấu tranh này càng phức tạp hơn khi các thế lực thù địch gắn với
thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Do đó, chúng ta không
được lơi lỏng, xem nhẹ việc phát hiện những biểu hiện “không bình thường” để kịp
thời đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Trong thực tiễn đã có những trường hợp sai phạm được phát hiện, xử lý
theo đúng quy định của pháp luật và Điều lệ Đảng. Nhưng cũng còn không ít những
sai phạm đang tiếp tục được kiểm tra, xử lý nhằm đảm bảo sự vững mạnh của Đảng
và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là
một tất yếu khách quan, gắn liền với sứ mệnh lịch sử của dân tộc Việt Nam. Điều
đó đã được khẳng định trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây
cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bởi, Đảng
ta luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn và chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh để mãi mãi trường tồn cùng dân tộc, như lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng
viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho
mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to
lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”. Thành công của sự
nghiệp đổi mới nói chung, công tác xây dựng Đảng nói riêng là điều chúng ta
luôn hướng tới. Dẫu biết rằng, để đạt được mục tiêu đó không hề dễ dàng, thậm
chí có vô vàn khó khăn, phức tạp phải vượt qua. Nhưng với niềm tự hào dân tộc,
về Đảng quang vinh; sự quyết tâm cao, thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân, chúng ta tin tưởng rằng, Đảng ta sẽ hoàn thành vẻ vang sứ
mệnh cao cả của mình, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, thực hiện thắng lợi
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét