Không thế lực nào có thể chia cắt nghĩa đồng bào (phần 1)
TCCS - Đoàn kết dân tộc
là quy luật muôn đời để dựng nước và giữ nước, là nguồn sức mạnh tạo nên mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam, là đường lối chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Một
trong những trọng điểm mà các thế lực thù địch, phản động tập trung mũi nhọn chống
phá sự nghiệp đổi mới là chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng
nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi. Cần phải bóc trần những âm mưu, thủ đoạn này để
từng cán bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao cảnh giác và đấu tranh kiên quyết.
Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”. Câu nói mộc mạc và súc tích ấy
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự tổng kết và khái quát ở tầm cao của trí tuệ, nêu
lên một quy luật và khẳng định truyền thống văn hóa hàng ngàn năm lịch sử trường
tồn của dân tộc Việt Nam. Nhờ có đoàn kết đồng lòng mà 54 tộc người cùng chung
sống trên mảnh đất không rộng lắm, người không đông lắm, trình độ phát triển về
kinh tế còn khó khăn, nhưng đã vượt qua bao gian lao, thử thách, chống chọi được
với thiên tai, địch họa, bảo vệ giang sơn, bờ cõi, thống nhất non sông, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc, và đang chung sức, chung lòng xây dựng đất nước ta
ngày một đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Dân tộc nào cũng có
truyền thống đoàn kết để sinh tồn và phát triển, song truyền thống đoàn kết của
dân tộc ta có những nét đặc thù. Đó là cuộc sống xen kẽ giao hòa của dân cư một
đất nước đa tộc người, đa tôn giáo, luôn phải biết chia sẻ giá trị, tôn trọng lẫn
nhau những khác biệt. Đó là những cuộc vật lộn liên miên để chống chọi với
thiên tai vô cùng khắc nghiệt và chiến đấu oanh liệt chống đủ loại chiến tranh
xâm lược hòng thôn tính lãnh thổ và nô dịch dân tộc ta. Đó còn là quá trình tự
ý thức về giá trị văn hóa thuộc về bản sắc dân tộc Việt Nam, một dân tộc ngay từ
khi hình thành đã mang tính cố kết cộng đồng cao.
Nghiên cứu chiều sâu của
đoàn kết dân tộc mới thấy rõ ý nghĩa trọng đại, có tầm lý luận cao và ý nghĩa
thực tiễn mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã tổng kết thành bài học thứ ba
trong năm bài học lớn của cách mạng nước ta và của cả quá trình phát triển của
lịch sử dân tộc, đó là: Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết toàn Đảng,
đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Cương lĩnh của Đảng đã
chỉ rõ các cấp độ đoàn kết có quan hệ biện chứng với nhau, kết hợp với nhau một
cách hữu cơ, tạo thành một tổng hợp lực để sản sinh ra sức mạnh vô địch không
thế lực nào phá vỡ nổi. Nhờ sức mạnh đó mà sự nghiệp chính nghĩa ắt giành được
thành công từ nhỏ đến lớn, đi tới thắng lợi cuối cùng, cho dù phải trải qua
sóng gió, thử thách, thậm chí vấp phải khó khăn, thất bại tạm thời. Bài học lịch
sử đó bác bỏ một cách đanh thép mọi luận điệu của các thế lực thù địch hòng
xuyên tạc, bôi nhọ đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc; khẳng định chắc chắn rằng,
đoàn kết là một truyền thống rất quý báu và vững chắc, một giá trị văn hóa và
tinh thần vô cùng quý báu, là đường lối chiến lược mang tính lâu dài, là quy luật
sinh tồn và phát triển của toàn dân tộc.
Sự tổng kết trong Cương
lĩnh hoàn toàn xuất phát từ thực tiễn lịch sử cách mạng nước ta, chứ không phải
mang tính chủ quan duy ý chí. Để đi đến thắng lợi to lớn ngày nay, cuộc đấu
tranh của nhân dân ta đã phải trải qua những khó khăn, thử thách, nhiều lúc vận
mệnh dân tộc như “ngàn cân treo trên sợi tóc”, những khúc quanh với những ấu
trĩ, sai lầm, khuyết điểm. Có những nơi, những lúc, những người vì lợi ích cá
nhân hẹp hòi đã tạo ra những hố ngăn cách không đáng có trong cộng đồng dân tộc.
Bước vào kinh tế thị trường, những hậu quả do mặt trái của nó mang lại, mà nổi
lên là sự phân hóa giàu nghèo, là chủ nghĩa thực dụng về vật chất, đã gây nên
những thách thức phức tạp làm tổn hại khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà việc khắc
phục và vượt qua những thách thức này không phải nhanh chóng, dễ dàng.
Hơn ai hết, dân tộc ta
hiểu rõ giá trị của sự đoàn kết và quyết tâm làm tất cả những gì có thể làm được
để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng
chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại hoặc làm xói mòn, làm suy yếu khối đại
đoàn kết này, vì lịch sử đã cho chúng ta bài học quý giá: “Đoàn kết thì sống,
chia rẽ thì chết”. Ngày nay, một môi trường quốc nội đoàn kết và ổn định là tiền
đề cần thiết thu hút đầu tư nước ngoài, tạo thế đứng cho đất nước trong công cuộc
hội nhập quốc tế, con đường tất yếu để nước ta tồn tại và phát triển trong xu
thế toàn cầu hóa ngày nay. Mọi thế lực thù địch muốn phá hoại sự nghiệp chính
nghĩa của dân tộc ta luôn luôn nhằm vào tiêu điểm là phủ nhận, xuyên tạc, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của nhân dân ta, vì đây chính là cội nguồn,
là bảo đảm cơ bản nhất cho thắng lợi của cách mạng nước ta, là một động lực chủ
yếu cho sự phát triển của đất nước hôm nay và mai sau. Hơn bao giờ hết, bất cứ
lúc nào, hễ nội bộ chia rẽ thì đất nước suy vong, kẻ thù nhòm ngó, xã hội rối
ren và tụt hậu. Tụt hậu về mọi mặt, trước hết là về kinh tế, có nghĩa là tự
đánh mất những thành quả cách mạng của nhân dân ta, dẫn đến mất độc lập, tự do,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Vì lẽ đó, đấu tranh để bảo vệ vững chắc khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, tức là đấu tranh làm thất bại về căn bản âm mưu thâm độc
của các thế lực thù địch phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta, là vấn
đề tồn vong của dân tộc, của chế độ. Đó là lương tâm, trách nhiệm của mỗi người
Việt Nam yêu nước, mỗi người cách mạng chân chính.
Truyền thống đoàn kết của
dân tộc ta từ lịch sử được nâng lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh, kết
tinh thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tiễn cách mạng
nước ta ngót một thế kỷ qua đã chứng minh một cách đanh thép sức sống mãnh liệt
và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất
là Đảng ta đã quán triệt sâu sắc tư tưởng đó như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường
lối cách mạng của Đảng qua mọi thời kỳ, từ khi thành lập Đảng cho đến ngày nay.
Trải qua gần 35 năm đổi
mới đất nước, các nghị quyết của Đảng đã không ngừng đi vào cuộc sống và khẳng
định những nội dung đúng đắn của đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là
tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở khơi dậy và phát huy sức mạnh
dân tộc đến mức cao nhất, đặt lợi ích chung của dân tộc, của nhân dân lên trên
hết, coi đó là điểm xuất phát để xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu; tăng
cường, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi nguồn lực bên ngoài để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết số 07-NQ/TW,
ngày 17-11-1993, của Bộ Chính trị khóa VII, “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường
Mặt trận Dân tộc thống nhất”, đề ra những quan điểm phản ánh tập trung nhất tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc, khẳng định nội dung cơ bản của đường lối đại đoàn kết
dân tộc trong thời kỳ đổi mới là “đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, người
trong nước và người định cư ở nước ngoài”(1), lấy mục tiêu chung là giữ vững độc
lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu đưa nước ta
sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh, coi đó là điểm tương đồng, “đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau,
không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm,
hận thù, hướng về tương lai, xây dựng tinh thần đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn
nhau...”. Đây là bước phát triển mới có ý nghĩa rất quan trọng về đường lối đại
đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bác bỏ những luận điệu sai trái cho rằng, Đảng
và Nhà nước ta thành kiến, hẹp hòi và phân biệt đối xử với những người trước
kia từng làm việc trong chế độ cũ.
Chúng ta đều biết rằng,
sau khi miền Nam được giải phóng, nước nhà thống nhất, nhiều người trong chế độ
cũ đã trở lại trong lòng dân tộc. Họ được sử dụng theo khả năng và sở trường,
không ít người đã được tín nhiệm bầu là đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng
nhân dân các cấp, công tác trong các cơ quan nhà nước, thành viên của ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam từ Trung ương đến địa phương. Nguyễn Hữu Có, nguyên Trung
tướng trong quân đội Sài Gòn, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
của chính quyền Sài Gòn, sau nhiều năm phấn đấu hòa nhập với nhân dân đã trở
thành Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chia sẻ: “Từ sau
ngày đất nước thật sự độc lập và thống nhất đã có rất nhiều chuyển biến, không
phải chỉ là một mặt mà ở nhiều mặt, không phải chỉ ở một phía, mà nhiều phía.
Tôi ra đường, ra phố bây giờ ai cũng gọi tôi là anh, là bác. Đó là kết quả của
những chuyển biến tích cực của xóm, phường, của chế độ và của chính tôi... Tôi
đã chọn ở lại với quê hương, với dân tộc và tôi thật sự cảm thấy hạnh phúc...”.
Nguyễn Cao Kỳ, nguyên
Phó Tổng thống của chính quyền Sài Gòn khi về thăm quê hương năm 2004, trong buổi
tiếp xúc với lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bày tỏ: “Tôi
cảm nhận thấy tình hình kinh tế - xã hội phát triển, ổn định, tốt đẹp, đời sống
nhân dân được cải thiện. Nhân dân vui vẻ, bình yên đón Tết cổ truyền của dân tộc
trong khối đại đoàn kết thống nhất vui vẻ. Trước đây, do sự áp đặt của ngoại
bang, Tổ quốc ta như một cơ thể bị chia cắt ra từng khúc, nay quý vị đã làm được
sự thống nhất trở lại. Tôi thấy từ trong đường gân thớ thịt mạch máu lưu thông,
sức sống của một cơ thể thống nhất đang phát triển từng ngày không gì cản trở
được. Chúng tôi, những người ở vào tuổi thất thập cũng nhắc nhở mình phải góp
phần nhỏ bé cho đất nước. Nhưng tương lai huy hoàng của đất nước này thuộc về lớp
trẻ hiện nay có sự lãnh đạo tập trung của Nhà nước Việt Nam và với chính sách đại
đoàn kết dân tộc đúng đắn, chúng ta sẽ phát triển phù hợp với trào lưu chung của
thế giới”.
Những lời phát biểu
trên đây của những người đã từng giữ những chức vụ rất cao trong bộ máy chính
quyền Sài Gòn trước năm 1975 đã góp phần phê phán mạnh mẽ và bác bỏ luận điệu
xuyên tạc đường lối đại đoàn kết của Đảng và Nhà nước ta. Không ai có thể tuyên
truyền, cưỡng ép họ phải nghĩ tốt về chế độ. Chỉ một cảm nhận nhỏ khi đi ra đường
được mọi người gọi là bác, là anh, đã làm cho họ thấy cuộc sống hạnh phúc, vì đồng
bào dang tay đón họ, những người mà nếu ở nơi khác có thể bị trả thù và bị loại
ra khỏi đời sống xã hội. Sức mạnh của đường lối đại đoàn kết đúng đắn của Đảng
và Nhà nước chẳng những tập hợp được đông đảo nhân dân, cao hơn thế, nó còn
khoan dung, cảm hóa được cả những người tưởng chừng như khó có thể trở về trong
lòng dân tộc.
Những năm qua, sự xuyên
tạc đường lối đại đoàn kết của Đảng và Nhà nước còn nhằm vào chia rẽ và phá hoại
quan hệ gắn bó máu thịt giữa 54 dân tộc anh em, chia rẽ dân tộc Kinh với các
dân tộc thiểu số, giữa các dân tộc thiểu số với nhau, phủ nhận chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước. Tuy thực tế còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng những
thay đổi lớn lao trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số trên khắp các
vùng, miền của đất nước đã chứng minh tính đúng đắn của các chính sách thể hiện
sự “bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển” đối với các dân tộc thiểu số.
Quan điểm đó của Đảng và Nhà nước ta là nguyên tắc cơ bản của các chủ trương,
chính sách đoàn kết các dân tộc thiểu số, xuất phát từ bản chất cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, từ tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, từ truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam ngày 19-4-1946, đã viết: “Đồng
bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân
tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta
sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau... Ngày nay nước Việt
Nam là nước chung của chúng ta... Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính
phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ
để giữ gìn nước non ta”. Tư tưởng đó là linh hồn của các chính sách dân tộc của
Nhà nước ta. Các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế,... ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã từng bước thể hiện tinh thần đó và đã mang lại
sự thay đổi rõ rệt.
Ya Đuk, người dân tộc
Cơ Ho, tỉnh Lâm Đồng, nguyên là thủ lĩnh của lực lượng FULRO trước đây, sau nhiều
năm sống trong rừng sâu chống lại chính quyền nhưng do nhận thức rõ chính sách
đúng đắn của Nhà nước ta, đã quay về với nhân dân, tích cực tham gia xây dựng
quê hương, tham gia Mặt trận Tổ quốc, rồi trưởng thành, là Phó Chủ tịch Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc tỉnh Lâm Đồng, đại biểu Quốc hội. Nhân dịp nghiên cứu, học tập
các nghị quyết của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành khóa IX(6), Ya Đuk viết:
“Xin cảm ơn Đảng Cộng sản Việt Nam, cảm ơn Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã đem lại cho bà con dân tộc thiểu số quyền được làm một công dân của
một đất nước độc lập, dân chủ, có cuộc sống ngày một ấm no, hạnh phúc và tiến bộ.
Những thay đổi to lớn đó là ước mơ của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên
từ bao đời nay”; “Đến nay, vẫn còn một số ít bà con dân tộc thiểu số Tây Nguyên
bị kẻ xấu lợi dụng, kích động, chia rẽ, xúi giục, mua chuộc, đã tụ tập đông người
có hành động gây rối. Đây chính là hành động mang màu sắc chính trị xấu xa, gây
mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước”.
Những chia sẻ đó là tiếng
nói của người trong cuộc, của những nhân chứng sống về chính sách đại đoàn kết
toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, bác bỏ đanh thép mọi sự vu cáo xấu xa về
chính sách dân tộc đúng đắn được đồng bào dân tộc thiểu số hoan nghênh và tích
cực ủng hộ bằng hành động cụ thể, thiết thực.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét