Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đạt nhiều thành tựu
Giai đoạn phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm (2016 – 2020) của đất nước ta chuẩn bị khép lại với những
thành tựu đáng tự hào. Tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2015-2020 ước tăng
khoảng 6,8%, đạt mục tiêu đề ra, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực.
Quy mô GDP của Việt Nam hiện nay ước tính khoảng trên 340 tỷ USD, tăng khoảng
1,4 lần so với năm 2015, trở thành nền kinh tế thứ 4 ở khu vực Đông Nam Á. Đời
sống nhân dân tiếp tục được cải thiện với GDP bình quân đầu người ở mức 2.750
USD, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh, đối ngoại được củng cố và
tăng cường.
Có được những thành tựu
trên, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trong bài
phát phát biểu tại chương trình Xuân Quê hương được tổ chức tháng 01/2019, đó
là do ý Đảng hợp với lòng dân, là sức mạnh đoàn kết, thống nhất cao, là sự nỗ lực
phấn đấu, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội,
trong đó có sự đóng góp quý báu và rất quan trọng của cộng đồng người Việt Nam
ta đang sinh sống, làm việc và học tập ở nước ngoài.
16 năm thực hiện Nghị
quyết số 36-NQ/BCT của Bộ Chính trị khóa IX (Nghị quyết 36) ngày 26/3/2004 về
công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) và 05 năm thực hiện Chỉ
thị số 45-CT/BCT của Bộ Chính trị (Chỉ thị 45) ngày 19/5/2015về việc tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Nghị quyết 36 là những minh chứng sống động của ý Đảng hợp với
lòng dân, là nền tảng thúc đẩy hơn nữa sức mạnh đoàn kết, hòa hợp dân tộc với
NVNONN phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020.
Đất nước đang bước vào
thời kỳ phát triển mới, chuẩn bị triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội giai đoạn 2021-2025 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2021 – 2030, đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực, trong đó có nguồn lực của
NVNONN nhằm thực hiện mục tiêu phát triển đất nước nhanh và bền vững, phấn đấu
sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc nhìn lại chặng đường
5 năm thực hiện Chỉ thị 45 có ý nghĩa hết sức quan trọng, là dịp để chúng ta tổng
kết, đánh giá toàn diện, sâu sắc thực trạng, rút ra những bài học kinh nghiệmđể
từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả
công tác đối với NVNONN trong tình hình mới.
Nhìn lại 16 năm thực hiện
Nghị quyết 36 và 5 năm thực hiện Chỉ thị 45 của Bộ Chính trị, có thể thấy “sự
vào cuộc của cả hệ thống chính trị” chính là sức mạnh tạo nên thành công của
công tác về NVNONN để chủ trương “cộng đồng NVNONN là bộ phận không tách rời và
là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam”thực sự đi vào đời sống của người
dân Việt Nam cả trong và ngoài nước.
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước
luôn dành sự quan tâm đối với đồng bào ta ở nước ngoài,thường xuyên gặp gỡ, tiếp
xúc, đối thoại, lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của kiều bào trong những dịp
đi công tác nước ngoài hoặc dịp kiều bào về thăm quê hương. Tình cảm đó càng được
thể hiện rõ khi bà con phải đối mặt với những khó khăn của dịch bệnh COVID-19
lan rộng khắp thế giới.
Tổng Bí thư, Chủ tịch
nước Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã rất quan tâm,
lo lắng cho bà con, trực tiếp chỉ đạo, yêu cầu các cơ quan chức năng tích cực
triển khai công tác hỗ trợ cho NVNONN về thông tin tuyên truyền các biện pháp
phòng chống dịch bệnh, hỗ trợ lương thực, vật tư y tế cho cộng đồng tại một số
địa bàn khó khăn, khẩn trương tổ chức các chuyến bay đưa công dân mắc kẹt,những
người có hoàn cảnh khó khăn ở nước ngoài về nước tránh dịch, đồng thời, đề nghị
chính phủ các nước có biện pháp hỗ trợ cuộc sống và đảm bảo về chăm sóc y tế
cho bà con bị nhiễm bệnh.
Bên cạnh đó, những
chính sách liên quan đến lợi ích thiết thân của kiều bào như quốc tịch, xuất nhập
cảnh, giáo dục đào tạo, nhà ở, chế độ hỗ trợ, đãi ngộ người có công với cách mạng…tiếp
tục được quan tâm và từng bước được luật hóa. Những khó khăn về địa vị pháp lý
của kiều bào ở một số địa bàn đang dần được tháo gỡ, đạt được những kết quả thuận
lợi.
Đời sống văn hóa, tinh
thần của bà con xa quê hương cũng luôn được quan tâm, thúc đẩy. Các cơ quan
trong nước đã tích cực phối hợp triển khai nhiều đề án dạy và học tiếng Việt với
nhiều hình thức phong phú, đa dạng cho NVNONN; cung cấp tài liệu, trang thiết bị
giáo dục, tổ chức tập huấn cho giáo viên kiều bào… góp phần nâng cao ý thức gìn
giữ tiếng Việt trong cộng đồng.
Công tác hỗ trợ cộng đồng
NVNONN giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ngày càng được chú trọng qua
hoạt động thúc đẩy và lan tỏa các giá trị về tư tưởng, văn hóa, đạo đức Hồ Chí
Minh và những giá trị văn hóa dân tộc tới cộng đồng NVNONN và bạn bè quốc tế, tổ
chức thường xuyên nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật phong phú, đa dạng phục vụ
cộng đồng NVNONN, thúc đẩy xây dựng các trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước
ngoài… Nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của bà con trong cộng đồng luôn được quan
tâm, hỗ trợ.
Nhu cầu thông tin về
tình hình trong nước của cộng đồng đã được quan tâm đáp ứng tốt hơn. Nhiều cơ
quan truyền thông đã coi trọng việc đưa tin đến với kiều bào, mở chuyên mục về
NVNONN, nâng cao chất lượng nội dung, chuyển tải đến cộng đồng NVNONN thông tin
cập nhật về tình hình đất nước và những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với NVNONN. Việc tạo điều kiện cho các phóng viên kiều bào về nước tác
nghiệp đưa tin về các sự kiện chính trị, quốc tế lớn trong nước như APEC 2017,
Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều 2019..., về sự phát triển của đất nước, về các
vấn đề được cộng đồng quan tâm giúp kiều bào cập nhật thông tin, góp phần đấu
tranh chống các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Nhiều hoạt động có ý
nghĩa gắn kết kiều bào, góp phần khơi dậy lòng tự hào dân tộc và tình cảm gắn
bó với quê hương tiếp tục được triển khai ở trong và ngoài nước như: Chương
trình Xuân Quê hương, Đoàn đại biểu kiều bào thăm Trường Sa, Trại hè cho thanh
niên, sinh viên, gặp mặt kiều bào nhân dịp Tết Nguyên đán, Ngày Văn hóa Việt
Nam, chương trình biểu diễn nghệ thuật, kỷ niệm các lễ lớn của đất nước… Nhiều
cá nhân từng có thành kiến, định kiến đã được vận động thuyết phục và tạo điều
kiện trở về quê hương chứng kiến tận mắt sự phát triển của đất nước, thăm, viếng
người thân, bạn bè, qua đó đã có chuyển biến về thái độ và quan điểm.
Nổi bật trong giai đoạn
vừa qua là hoạt động thu hút nguồn lực NVNONN đã được các cơ quan liên quan phối
hợp thúc đẩy mạnh mẽ, có sự thay đổi rõ rệt về chất với việc tạo cơ chế, triển
khai nhiều hoạt động, hình thức thu hút, trọng dụng trí thức, cá nhân là
NVNONN, trong đó tập trung vào lực lượng trẻ NVNONN được đào tạo, trưởng thành ở
nước ngoài.
Các vướng mắc của doanh
nghiệp, chuyên gia, nhà khoa học NVNONN khi về địa phương đầu tư, kinh doanh, hợp
tác khoa học cũng được hỗ trợ giải đáp, tháo gỡ. Các mạng lưới chuyên gia,
doanh nhân NVNONN được khuyến khích tham gia đóng góp ý kiến vào những vấn đề cấp
thiết ở trong nước. Một số NVNONN cũng được tạo điều kiện tham gia vào một số
cơ chế quan trọng như Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…
Cùng với sự phát triển
và vị thế ngày càng cao của đất nước trên trường quốc tế, sau 5 năm thực hiện
Chỉ thị 45, cộng đồng NVNONN ngày càng lớn mạnh về số lượng và mở rộng hơn về địa
bàn. Từ 4,5 triệu người ở 109 quốc gia và vùng lãnh thổ năm 2015, đến nay cộng
đồng NVNONN có khoảng 5,3 triệu người sinh sống, làm việc trên 130 quốc gia và
vùng lãnh thổ (tăng 18% trong vòng 5 năm).
Vai trò, vị thế và uy
tín của cộng đồng NVNONN trong xã hội sở tại ngày càng được nâng cao. Đại bộ phận
bà con đã có địa vị pháp lý, ổn định cuộc sống, hội nhập sâu rộng vào xã hội sở
tại, ngày càng có nhiều kiều bào tham gia chính trường sở tại ở các cấp độ các
nhau. Theo ước tính, có khoảng 500 ngàn chuyên gia, trí thức NVNONN, chiếm tỷ lệ
10% trong cộng đồng NVNONN. Một thế hệ trí thức mới người gốc Việt trẻ và tài
năng đang hình thành và phát triển, tập trung ở nhiều lĩnh vực mũi nhọn như tin
học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, chế tạo máy, sinh học.
Các hội đoàn NVNONN tiếp
tục được củng cố và phát triển, góp phần tăng cường đoàn kết trong cộng đồng,
gìn giữ và lan tỏa bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, thực sự là cầu nối
hữu nghị giữa Việt Nam với các nước. Nhiều cơ sở tôn giáo của NVNONN được thành
lập trong những năm qua và đã duy trì đều đặn các hoạt động sinh hoạt văn hóa,
tâm linh. Phong trào dạy và học tiếng Việt của NVNONN ngày càng phát triển mạnh,
một số chính quyền sở tại đã cho phép đưa tiếng Việt vào giảng dạy như một ngoại
ngữ tại nhiều bậc học.
Cộng đồng NVNONN ngày
càng gắn bó với quê hương, đã và đang trở thành một trong những nguồn lực quan
trọng đóng góp cho quá trình xây dựng, bảo vệ, phát triển, hội nhập quốc tế của
đất nước và duy trì, củng cố mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam và các
nước.
Ngày càng có nhiều nhà
khoa học, doanh nhân, các văn nghệ sỹ kiều bào về nước sinh sống, làm việc, đầu
tư, kinh doanh, hoạt động văn hóa, nghệ thuật..., tích cực tham gia ý kiến vào
nhiều chủ trương chính sách của Nhà nước, dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng…
Đáng chú ý, thời gian gần đây, thế hệ trẻ NVNONN, kể cả những người đã định cư
và có công việc ổn định ở nước ngoài, về nước lập nghiệp đã trở thành xu hướng
mới; hình thành thành mạng lưới kiều bào trẻ, thúc đẩy nhiều ý tưởng, sáng kiến
đóng góp cho đất nước.
Cộng đồng NVNONN đang
đóng vai trò tích cực, là cầu nối quan hệ giữa Việt Nam với các nước. Nhiều
doanh nghiệp người Việt đã liên kết, thúc đẩy thương mại, đưa hàng hóa Việt Nam
ra thị trường quốc tế, quảng bá văn hóa và hình ảnh đất nước tới bạn bè thế giới.
Trong 5 năm gần đây, tổng
kiều hối đạt hơn 71 tỷ USD (tăng trưởng trung bình 6%/năm), góp phần cải thiện
cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Tính đến tháng 10/2020, kiều
bào từ 27 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có 362 dự án FDI đầu tư tại Việt Nam với
tổng số vốn đăng ký 1,6 tỷ USD. Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn, mang tầm cỡ
khu vực do những doanh nhân NVNONN về nước thành lập, điều hành đã góp phần tạo
công ăn việc làm, chuyển giao công nghệ và phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng hành cùng nhân dân
cả nước trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, kiều bào đã
tổ chức các buổi triển lãm, hội thảo về Biển Đông, quyên góp tiền và hàng hóa
trị giá hàng tỷ đồng ủng hộ “Quỹ vì biển, đảo Việt Nam”, qua đó góp phần củng cố
sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong mặt trận đấu tranh giữ vững hoà bình, ổn
định và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc.
Công tác đối với NVNONN
cũng luôn thể hiện truyền thống “tương thân, tương ái” của người Việt qua việc
hưởng ứng tích cực, tham gia ủng hộ nạn nhân chất độc da cam dioxin và ủng hộ đồng
bào bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh ở trong nước. Đặc biệt, cộng đồng đã
chung sức đồng lòng ủng hộ trong nước phòng chống đại dịch COVID-19, với khoản
tiền đóng góp khoảng 35 tỷ đồng, cùng nhiều vật tư y tế.
Trong đợt thiên tai lũ
lụt miền Trung vừa qua, dù đang phải đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế do ảnh
hưởng của dịch COVID-19, kiều bào ở nhiều nơi trên thế giới, kể cả những địa
bàn đặc biệt khó khăn như ở Campuchia, đã tích cực quyên góp cho đến nay được
khoảng 34 tỷ đồng, cùng nhiều hàng hóa, vật phẩm giúp đồng bào miền Trung bị
thiệt hại nặng nề do bão lụt nhanh chóng khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định
cuộc sống.
Bên cạnh những thuận lợi,
cộng đồng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Cuộc sống của một bộ
phận NVNONN tại một số địa bàn vẫn còn nhiều khó khăn, địa vị pháp lý chưa vững
chắc, nhiều nước ngày càng thắt chặt chính sách di trú, cư trú hoặc có chính
sách phân biệt đối xử đối với ngoại kiều.
Do tác động nghiêm trọng
của đại dịch COVID-19, công ăn việc làm, việc học tập, đi lại của NVNONN tiếp tục
gặp nhiều khó khăn. Các hội đoàn truyền thống gặp khó khăn trong việc duy trì
và mở rộng hoạt động, xây dựng và phát triển lớp trẻ kế cận. Xu hướng trẻ hóa
cơ cấu, thành phần cộng đồng NVNONN cũng đặt ra thách thức về việc mai một dần
các giá trị truyền thống và ngôn ngữ dân tộc.... Những khó khăn, thách thức của
cộng đồng tiếp tục đặt ra những yêu cầu trong công tác hỗ trợ cộng đồng NVNONN
giai đoạn tiếp theo.
Sau 5 năm triển khai thực
hiện Chỉ thị 45 cho thấy những bài học quan trọng trong công tác NVNONN. Về nhận
thức, cả hệ thống chính trị và người dân cần nhận thức rõ tầm quan trọng của
công tác NVNONN - công tác dân vận đặc biệt. Những chủ trương lớn trong Nghị
quyết 36 và Chỉ thị 45 là định hướng cơ bản, xuyên suốt và lâu dài trong chỉ đạo,
lãnh đạo và triển khai công tác NVNONN.
Trong triển khai thực
hiện, phải tiến hành toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, cần có sự vào cuộc của
cả hệ thống chính trị; cần có sự đồng bộ nhất quán trong ban hành và triển khai
thực hiện các đường lối, chính sách đối với NVNONN và song hành với chính sách
đối ngoại, phát triển kinh tế -xã hội của đất nước; sự phối hợp chặt chẽ thường
xuyên của các ban, bộ ngành và địa phương cũng như các cơ quan thông tấn báo
chí, sự chủ động của các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và sự tích cực
tham gia của các tổ chức, hội đoàn về NVNONN.
Trong thời gian tới,
tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tạo ra nhiều thách
thức nhưng cũng không ít những thời cơ, vận hội cho đất nước. Trong nước, đất
nước chuyển mình sang giai đoạn phát triển mới với nền tảng thuận lợi cho một sức
bật mới mạnh mẽ sau gần 35 năm đổi mới như lời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn
Phú Trọng đã nói “đất nước chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc
tế như ngày nay”.
Để công tác về NVNONN
tiếp tục có những chuyển biến mạnh mẽ hơn, góp phần thực hiện thành công chiến
lược phát triển chung của đất nước theo mục tiêu do Đại hội XIII của Đảng đề
ra, Bộ Ngoại giao sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành liên
quan cụ thể hóa công tác NVNONN theo định hướng Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng,
tiếp tục thực hiện Nghị quyết 36 và Chỉ thị 45 của Bộ Chính trị.
Tập trung triển khai có
hiệu quả các công tác trọng tâm là “tăng cường hỗ trợ đồng bào ở nước ngoài có
địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã hội nước
sở tại. Nâng cao hiệu quả bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh.... Tạo
điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao
lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Làm tốt công tác công tác thông tin tình hình
trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với
lợi ích quốc gia - dân tộc, có đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Đồng thời, xây dựng triển khai các chương trình cụ thể để thu hút
và phát huy có hiệu quả các nhà khoa học, chuyên gia giỏi là NVNONN”.
Chúng ta tin tưởng rằng,
trên con đường phía trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nỗ lực của 97 triệu
người dân trong nước cùng sự đồng hành, tấm lòng hướng về quê hương của 5,3 triệu
đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta sẽ xây dựng được một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và một cộng đồng NVNONN phát triển mạnh
mẽ, hội nhập sâu rộng vào xã hội sở tại.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét