Du lịch biển đảo Việt Nam: Tiềm năng và hướng phát triển
Việt Nam có nhiều tiềm năng về du lịch
biển đảo khi sở hữu đường bờ biển dài hơn 3.260 km và hơn 3.000 hòn đảo, với những
bờ cát trắng, vịnh biển hoang sơ, những hòn đảo nhiệt đới quanh năm tươi tốt…
Việt Nam đứng thứ 27 trong số 156 quốc
gia có biển trên thế giới và là nước có diện tích ven biển lớn ở khu vực Đông
Nam Á. Và có tới 125 bãi biển mà hầu hết là các bãi tắm đẹp, trong đó bãi biển
Đà Nẵng đã được tạp chí Forbes bầu chọn là 1 trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành
tinh. Việt Nam cũng là 1 trong 12 quốc gia có các vịnh đẹp nhất thế giới là Vịnh
Hạ Long, Vịnh Nha Trang.
Về mặt hành chính, 28 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương là các địa phương có biển, với diện tích tự nhiên là 126.747
km2, dân số (năm 2010) là 37,2 triệu người, bằng 38,2% diện tích tự nhiên và
41,1% dân số cả nước.
Bên cạnh đó, lãnh thổ vùng đất ven biển,
vùng biển và hệ thống các đảo, nơi diễn ra du lịch biển đảo và vùng ven biển tập
trung tới 7/13 di sản thế giới ở Việt Nam; 6/8 các khu dự trữ sinh quyển; nhiều
vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên…
Ngoài ra, từ bao đời nay, biển đảo không
chỉ là nơi cung cấp nguồn sống, mà còn là không gian để cộng đồng người Việt tạo
lập nên một nền văn hóa biển đảo, với những di sản văn hóa đặc sắc. Đó là hệ thống
di tích lịch sử-văn hóa liên quan đến môi trường biển, hệ thống thần linh biển,
những bậc tiền bối có công trong công cuộc chinh phục biển, xác lập và thực thi
chủ quyền quốc gia trên biển...; các lễ hội dân gian của cư dân miền biển; tín
ngưỡng, phong tục tập quán liên quan đến biển; văn hóa sinh kế, văn hóa cư trú,
văn hóa ẩm thực, diễn xướng dân gian, tri thức bản địa... Ðây chính là nguồn
tài nguyên giàu có để phát triển du lịch biển đảo bền vững.
Nắm bắt thế mạnh trên, thời gian qua,
nhiều khu du lịch biển tiềm năng đã được quy hoạch và đầu tư phát triển như:
bãi biển Sầm Sơn (Thanh Hóa); bãi biển Non Nước, Mỹ Khê (Đà Nẵng); vịnh Nha
Trang, vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa); bãi biển Mũi Né (Bình Thuận); bãi biển Vũng
Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu)...
Việt Nam đã hình thành 3 trung tâm du lịch
biển có sức hút với khách quốc tế, gồm vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), Đà Nẵng, Nha
Trang (Khánh Hòa) với những cơ sở lưu trú hiện đại 4-5 sao, có thể đón những
đoàn khách đến nghỉ dưỡng và phát triển du lịch MICE (du lịch hội nghị, hội thảo).
Cùng với việc đầu tư xây dựng hạ tầng du
lịch, nhiều dịch vụ giải trí, thể thao biển đã được đưa vào hoạt động như: chèo
thuyền du lịch, kéo dù bằng ca nô, lướt ván, đua thuyền, bóng đá, bóng chuyền
bãi biển… Đặc biệt, loại hình ngắm biển bằng dù lượn, khinh khí cầu, máy bay mô
hình (ở biển Nha Trang, Đà Nẵng) hay bằng máy bay trực thăng (ở vịnh Hạ Long)
đang được rất nhiều khách du lịch yêu thích.
Với sự đầu tư mạnh mẽ về cơ sở hạ tầng
cùng các dịch vụ giải trí, du lịch biển đã thu hút hàng triệu lượt khách đến
thăm quan và nghỉ dưỡng mỗi năm. Hoạt động du lịch biển đảo hiện chiếm khoảng
70% hoạt động của ngành du lịch Việt Nam.
Các sản vật địa phương liên quan đến biển
cũng theo đó mà phát triển thành thương hiệu, đậm dấu ấn địa phương, góp phần
đáng kể vào việc phát triển sản phẩm gắn với các tour du lịch. Có thể kể đến một
số sản phẩm nổi tiếng như: nước mắm Phú Quốc, chả mực Hạ Long, tỏi Lý Sơn, yến
sào Nha Trang, mật ong rừng Cát Bà...
Việc du lịch biển, đảo Việt Nam có lượng
du khách lớn, đã khiến các nhà đầu tư nước ngoài tăng cường đầu tư vào lĩnh vực
này. Đến năm 2015, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực du lịch biển, đảo đã có ở
23 tỉnh/thành phố của cả nước, chiếm trên 70% số các dự án đầu tư trong lĩnh vực
du lịch. Trong đó có một số dự án lớn như: Dự án của tập đoàn Platinum Dragon
Empire (Mỹ) phát triển khu du lịch vui chơi giải trí tại Bà Rịa-Vũng Tàu với số
vốn lên đến 550 triệu USD; dự án đầu tư của Tập đoàn Rockingham (Anh) xây dựng
khu du lịch nghỉ dưỡng biển cao cấp và các khu vui chơi giải trí, trường đua ô
tô 1.000 ha tại Phú Quốc, quy mô dự án lên đến 1 tỷ USD…
Du lịch biển phát triển cũng góp phần
thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác; tạo thêm nhiều việc làm
cho xã hội dải ven biển, nơi hiện có khoảng 21,2 triệu người trong độ tuổi lao
động và góp phần bảo đảm an ninh - quốc phòng, bảo vệ môi trường biển.
Việc phát triển mạnh mẽ của du lịch biển
đảo trong những năm qua, đã mang lại cơ hội xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống
của người dân ở vùng ven biển nhiều địa phương trong cả nước.
Song theo đánh giá của các chuyên gia, kết
quả này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng lớn của du lịch biển, đảo Việt Nam.
Thực tế cho thấy, du lịch biển, đảo ở Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế
như: Dịch vụ du lịch còn thiếu, nghèo nàn; sản phẩm du lịch biển chưa đa dạng;
an ninh trật tự và việc quản lý giá tại một số khu, điểm du lịch chưa đảm bảo;
quy hoạch của nhiều bãi biển đẹp đã bị phá vỡ, phát triển manh mún và khó điều
chỉnh…
Nhằm khắc phục những hạn chế cũng như tạo
sức bật cho du lịch biển, đảo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phê duyệt đề
án “Phát triển du lịch biển, đảo và vùng ven biển Việt Nam đến năm 2020”. Mục
tiêu của đề án là đến năm 2020, du lịch biển sẽ trở thành động lực của kinh tế
biển Việt Nam, góp phần đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ
biển và bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh. Đề
án cũng đề ra mục tiêu vào năm 2020, du lịch biển thu hút 22 triệu lượt khách
quốc tế, 58 triệu lượt khách nội địa, tổng thu từ du lịch biển đạt 200.000 tỷ đồng.
Các chuyên gia cũng nhận định, việc chú
trọng đẩy mạnh phát triển du lịch biển đảo là một định hướng đúng đắn, phù hợp
với thế mạnh của ngành du lịch Việt Nam và mang ý nghĩa đặc biệt trong việc khẳng
định và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đất nước. Tuy nhiên, để du lịch biển đảo phát
triển bền vững, tương xứng với tiềm năng và tạo được thương hiệu riêng thì
ngoài việc phải khắc phục những hạn chế đã tồn tại nhiều năm qua, cần có sự đầu
tư và quản lý một cách chiến lược cả về cơ sở vật chất, dịch vụ và con người
cho các trung tâm du lịch biển đảo đã được xác định. Đặc biệt, cần phát huy yếu
tố văn hoá của từng địa phương trong phát triển du lịch biển để tạo dấu ấn
riêng và thu hút khách du lịch quay trở lại nhiều lần./.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét