Việt Nam ưu tiên thúc đẩy quyền con người của nhóm yếu thế
(VOV)
- Việt Nam cam kết bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, dành ưu tiên cho các
nhóm người yếu thế trong xã hội và tiếp tục nỗ lực phục hồi kinh tế hậu đại dịch,
hướng tới thực hiện thành công các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) của Liên
hợp quốc. Việt Nam đã xây dựng nhiều chính sách và đạt được nhiều kết quả thực
tế trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, đặc biệt là nhóm người yếu thế
trong xã hội, đúng như cam kết của Việt Nam trong các công ước quốc tế về quyền
con người.
Đại dịch COVID-19 đã và đang tác động
tiêu cực đến tất cả người dân trên toàn cầu, trong đó người lao động, người
nghèo, người yếu thế là những nhóm bị tổn thương nhiều nhất. Việt Nam, quốc gia
thành viên của 7/9 điều ước cốt lõi về quyền con người của Liên hợp quốc, đã có
nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm cân đối giữa việc thực hiện các biện pháp khẩn cấp phòng chống
COVID-19 và tôn trọng các cam kết và nghĩa vụ pháp lý của mình theo quy định của
pháp luật quốc tế và hiến pháp, pháp luật quốc gia.
Có thể kể đến một số kết quả cụ thể về bảo
đảm quyền con người trong ứng phó với COVID-19 của Việt Nam. Đó là, Việt Nam đã
huy động sự tham gia của toàn hệ thống chính trị và nhân dân để thực hiện quyền
được bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của người dân trong tình huống y tế khẩn cấp
như: kiểm soát, cách ly bắt buộc với người nhập cảnh, đóng cửa trường học, hạn
chế đi lại, khai báo y tế, cách ly toàn xã hội, xử lý nguồn lây bệnh, ổ dịch,
quản lý lây nhiễm chéo tại cơ sở y tế, quản lý nguy cơ lây nhiễm ở các nhóm
nguy cơ cao và trường hợp cần cách ly. Chính phủ cũng thực hiện quyết liệt việc
bảo đảm để mọi người dân đều được tiếp cận với các cơ sở, dịch vụ y tế và vật
tư y khi tình huống y tế khẩn cấp xảy ra và đảm bảo việc tiếp cận khám và điều
trị miễn phí COVID-19 cho tất cả bệnh nhân.
Hơn tất cả, người dân Việt Nam được quyền tiếp
cận nguồn thông tin chính thống của Chính phủ, Bộ Y tế trong dịch bệnh
COVID-19. Người dân được cung cấp đầy đủ và cập nhật thông tin về tình hình dịch
bệnh ở Việt Nam và trên thế giới, thông tin về các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh
qua nhiều phương tiện truyền thông khác nhau, kể cả qua mạng xã hội, tin nhắn
điện thoại. Việt Nam cũng triển khai các kênh thông tin để tiếp nhận ý kiến, khuyến
cáo của chuyên gia, các bộ ngành và người dân về các đề xuất, sáng kiến phòng ngừa dịch bệnh.
Chính phủ cũng khẩn trương đưa cổng
thông tin điện tử quốc gia tích hợp các dịch vụ công ở mức độ 3, mức độ 4 vào
hoạt động, giúp người dân đảm bảo hoạt động xã hội trong điều kiện phải cách ly
vì dịch bệnh. Minh bạch thông tin, tăng cường các dịch vụ công trực tuyến là biểu
hiện rõ ràng và thực tế nhất về việc đảm bảo quyền của người dân Việt Nam trong
đại dịch COVID-19.
Bên cạnh các biện pháp y tế công về
phòng, chống dịch, Việt Nam đã thông qua và thực hiện các chương trình, chính
sách hỗ trợ để giảm tác động tiêu cực của dịch COVID-19 đặc biệt đối với một số
nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Theo đó, một số nhóm có thể phải chịu rủi ro
nhiễm bệnh và nguy cơ tử vong cao hơn như: người cao tuổi, người có bệnh mãn
tính tim mạch, huyết áp, hen, tiểu đường... được bảo vệ và hỗ trợ để phòng ngừa
y tế tốt hơn. Biện pháp giãn cách xã hội, cách ly và phong toả để phòng ngừa bệnh
dịch cũng được thực hiện một cách thận trọng, đặc biệt đối với một nhóm xã hội
như trẻ em, người lao động mất việc làm; phụ nữ; người khuyết tật; các nhóm dân
tộc thiểu số ở khu vực vùng sâu, vùng xa.
Song song với các ứng phó về y tế, Chính
phủ Việt Nam đã triển khai gói hỗ trợ an sinh xã hội chưa từng có trong tiền lệ
với tổng kinh phí hơn 62 nghìn tỷ đồng (khoảng 2,7 tỷ USD). Khoảng 20 triệu người
thuộc 7 nhóm đối tượng, đặc biệt là các nhóm yếu thế với hàng trăm nghìn người
như người già, người ốm đau, người giảm sâu thu nhập, người không có thu nhập ổn
định, người lao động đứt bữa được hưởng gói hỗ trợ thiết thực này.
Đại dịch COVID-19 không chỉ là phép thử
đối với hệ thống y tế của mỗi quốc gia mà rộng hơn nữa đó cũng chính là phép thử
với các hệ tư tưởng, giá trị và thể chế mà quốc gia đó theo đuổi. Việt Nam đã
có chính sách, hành động ứng phó toàn diện không chỉ về mặt y tế mà cả về chính
trị, kinh tế, xã hội, trong đó có việc bảo đảm, cân đối giữa biện pháp phòng chống
dịch bệnh với tôn trọng các quyền con người, nhân phẩm của mỗi cá nhân và cộng
đồng, đặc biệt quan tâm, chăm lo, bảo vệ quyền của các nhóm đối tượng yếu thế
trong xã hội. Đây là những minh chứng rõ ràng cho nỗ lực của Việt Nam trong việc
tôn trọng, bảo vệ và thực thi quyền con người.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét