Chủ nghĩa xã hội là chế độ thật sự vì hạnh phúc của nhân dân
Kỷ
niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và 110 năm Ngày Bác đi tìm
con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết
quan trọng "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam". Bài viết đề cập nhiều nhận thức
mới có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề sâu sắc trong xây dựng Ðảng về
chính trị và về tư tưởng, lý luận.
Phát
triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phải dựa
trên lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðó là sự
phát triển quan điểm về mối quan hệ giữa trung thành, kiên định với phát triển
sáng tạo. Trung thành mà không sáng tạo dễ dẫn đến giáo điều, cứng nhắc, duy ý
chí; sáng tạo mà không trung thành, kiên định có thể mắc vào chủ nghĩa xét lại,
mất phương hướng, chệch hướng.
Lịch
sử của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới kể từ Cách mạng Tháng Mười (năm
1917) đã hơn 100 năm. Chủ nghĩa xã hội đạt được những thành tựu to lớn tỏ rõ
tính ưu việt không thể phủ nhận, nhưng cũng bộc lộ những khuyết tật, hạn chế,
chậm được sửa chữa và dẫn tới tan rã mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các
nước Ðông Âu. Sau biến cố đó, một số nước trong đó có Việt Nam vẫn kiên định
con đường xã hội chủ nghĩa, và ở mỗi nước đều có sự phát triển mới trong nhận
thức và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Việt
Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chưa có điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Năm 1947, trong hoàn cảnh kháng chiến chống xâm lược, Hồ Chí Minh đã xác định,
Ðảng "phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh,
đồng bào sung sướng". Khi miền bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn quan trọng về trách nhiệm của Ðảng cầm
quyền, lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, trách nhiệm với cuộc sống của nhân
dân. Năm 1956, Hồ Chí Minh định nghĩa ngắn gọn: "Chủ nghĩa xã hội là làm
sao cho dân giàu nước mạnh". Người nhấn mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam phải có con đường riêng, không thể giống như các nước khác. "Ta
không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa
lý khác". Năm 1957, Hồ Chí Minh còn căn dặn: "Chúng ta phải nâng cao
sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lê-nin để dùng lập trường, quan điểm, phương
pháp chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà tổng kết những kinh nghiệm của Ðảng ta, phân
tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có
thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được
những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa
thích hợp với tình hình nước ta".
Công
cuộc đổi mới do Ðảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ Ðại hội VI
(tháng 12-1986) đã thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trải qua 35 năm đổi mới, Việt
Nam đã đạt những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Một trong những thành tựu
đó là sự phát triển sáng tạo trong tư duy lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Bài viết của Tổng
Bí thư tiếp tục làm rõ hơn nhận thức, tính khoa học và hiện thực của con đường
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ
Cương lĩnh 1991, Ðảng nêu rõ sáu đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đến Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 với tám đặc trưng là sự phát
triển rất cơ bản, sự kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu lý luận, phát triển tư
duy sáng tạo với tổng kết thực tiễn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt
Nam. Muốn cho chủ nghĩa xã hội trở thành một khoa học, đòi hỏi sự nghiên cứu thấu
đáo, đồng thời phải đặt nó trên mảnh đất hiện thực. Cốt lõi trong tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Ðảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội vẫn là giải
phóng con người khỏi áp bức, bất công, vì cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc của mỗi
con người. Cương lĩnh năm 2011 nhấn mạnh đặc trưng hàng đầu là dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Ðặc trưng tiếp theo là xã hội do nhân dân làm chủ.
Tiếp đó là "con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện". Các đặc trưng khác, xây dựng nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp đều
hướng tới nhân dân, hướng tới con người, khi xác định: "Con người là trung
tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển".
Thực
tiễn đổi mới cho thấy mô hình chủ nghĩa xã hội từng bước được hiện thực hóa. Chủ
nghĩa xã hội là xã hội mưu cầu lợi ích cho toàn dân chứ không phải vì lợi ích của
số ít người. Công cuộc đổi mới đã kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; kết hợp chính sách kinh tế với chính sách
xã hội, từ thành tựu phát triển kinh tế mà thực hiện ngày càng tốt hơn các
chính sách xã hội, thực hiện và bảo đảm an sinh xã hội với hai trụ cột là bảo
hiểm xã hội và cứu trợ xã hội. Ðó là những chính sách ưu việt của chủ nghĩa xã
hội, vừa bảo đảm cuộc sống lâu dài của người dân trong suốt cuộc đời, vừa trợ
giúp những tầng lớp yếu thế trong xã hội, nhất là khi xảy ra thiên tai, dịch bệnh
và những biến động khác.
Chủ
nghĩa xã hội là xã hội mà mọi người dân được ấm no, tự do, sung sướng, hạnh phúc.
Chuẩn mực hạnh phúc được đặt ra để mọi người, toàn xã hội phấn đấu và chính
sách, pháp luật bảo đảm cho những chuẩn mực đó được thực hiện tốt nhất. Thu nhập
của người dân không ngừng tăng lên bảo đảm cuộc sống đầy đủ về vật chất. Hưởng
thụ nền giáo dục và văn hóa tiên tiến để có cuộc sống tinh thần, văn hóa lành mạnh,
tốt đẹp và giá trị đạo đức trong sáng. Xóa đói, giảm nghèo là chương trình và mục
tiêu lớn trong công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam là một
trong những nước thành công nhất trong cuộc đấu tranh chống đói nghèo. Việt Nam
đã hạ tỷ lệ hộ nghèo từ 58% (năm 1993) xuống còn dưới 3% (năm 2020). "Diện
bao phủ bảo hiểm xã hội được mở rộng, tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi
tham gia bảo hiểm xã hội năm 2020 đạt 32,7%. Mở rộng diện đối tượng hưởng trợ cấp
xã hội"(6). Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện hai Chương trình quốc gia:
Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình xây dựng nông thôn mới. Tầng lớp
trung lưu ngày càng tăng lên trong xã hội, mục tiêu dân giàu không ngừng phát
triển. Nhưng cũng phải nhìn nhận, con số dưới 3% hộ nghèo vẫn tương đương hàng
triệu người. Phải có chính sách, giải pháp mạnh mẽ đạt hiệu quả để không còn hộ
đói nghèo.
Chế
độ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị gắn liền
với thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ðảng không ngừng xây dựng, chỉnh đốn,
nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu bảo đảm lãnh đạo xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hướng tới phục vụ nhân dân ngày
càng tốt hơn. Xây dựng Chính phủ kiến tạo, hành động, liêm chính và vì dân. Cán
bộ, công chức, viên chức trong bộ máy
nhà nước nêu cao tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Xây dựng Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
rộng rãi và thực chất. Cần nhấn mạnh vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Hệ thống luật pháp của Nhà nước cũng phục vụ tốt nhất cho người dân, bảo
vệ và thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như đã
ghi trong Chương II của Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Chủ
nghĩa xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Chủ nghĩa xã hội phải là đỉnh cao của văn hóa, văn
minh hướng người dân tới những giá trị tốt đẹp nhất. Văn hóa đó kế thừa, phát
triển giá trị văn hóa của dân tộc suốt mấy nghìn năm lịch sử định hình nền văn
hiến Việt Nam. Văn hiến là hội tụ giá trị văn hóa, học thức, đạo đức và cái đẹp.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa phát triển văn hóa dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại. Văn hóa Hồ Chí
Minh là điển hình của sự kết hợp tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại. Hiện
nay cần nhận thức rõ văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và là động lực của
sự phát triển. Xây dựng, phát triển văn hóa gắn liền với xây dựng, phát triển
con người Việt Nam trong thời đại mới. Con người không chỉ hưởng thụ thành quả
của chủ nghĩa xã hội mà phải là chủ thể sáng tạo trong xây dựng xã hội mới.
Sinh thời, Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Ðó là con người có giác ngộ cao về lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, về quyền làm chủ, có trí tuệ và kỹ
năng lao động, làm việc, có ý thức tổ chức và tinh thần tự giác, trách nhiệm với
đất nước, xã hội, với mọi người, có đạo đức và lối sống văn minh. Chỉ với những
con người như thế, được giáo dục, đào tạo và rèn luyện không ngừng mới có thể
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trên
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay càng đòi hỏi rất cao về phát huy
vai trò chủ thể của con người. Ðó là con người Việt Nam yêu nước, nhân ái,
nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù và sáng tạo. Con người Việt Nam phải
có trí tuệ cao và khát
vọng phấn đấu vì sự hùng cường, phồn vinh của Tổ quốc và hạnh phúc của chính
mình. Ðại hội XIII nêu rõ sự cần thiết "Khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách
cụ thể phát triển văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách
xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ
trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao
chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam".
Chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam "có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới". Hòa bình, hữu nghị, hợp tác là bản chất của chủ nghĩa xã hội
Việt Nam dựa trên truyền thống hòa hiếu của dân tộc và chủ nghĩa quốc tế vô sản
trong sáng. Ðại hội XIII nhấn mạnh, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải
quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc,
bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Khát vọng hòa bình, độc lập gắn liền
với chủ nghĩa xã hội cũng là hạnh phúc lớn lao của toàn dân tộc.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét