Nâng tầm thương hiệu du lịch văn hóa
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phê duyệt Đề án
xây dựng thương hiệu quốc gia về du lịch văn hóa từ cuối năm 2020. Đối với Việt
Nam, du lịch văn hóa từ lâu đã là dòng sản phẩm du lịch cơ bản. Tuy nhiên, để định
vị và nâng tầm được thương hiệu cho du lịch văn hóa, còn nhiều việc phải làm,
nhất là trong bối cảnh ngành du lịch đang chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề từ làn
sóng dịch Covid-19.
Du lịch văn hóa từ lâu đã là dòng sản phẩm du lịch
cơ bản, nhất là đối với Việt Nam - quốc gia có bề dày truyền thống văn hóa cùng
hệ thống di sản trải dài trên khắp cả nước. Cũng vì thế, du lịch văn hóa đã và
đang trở thành một trong những thế mạnh nổi trội và được khai thác khá tốt tại
một số địa phương. Nhiều địa phương đã coi di sản là cốt lõi để phát triển các
loại hình du lịch như: du lịch sinh thái, du lịch tâm linh, du lịch trải nghiệm…
Tuy nhiên, nhìn từ thực tế, vẫn còn tồn tại nhiều vấn
đề. Phần lớn các địa phương mới chỉ tập trung phát huy thế mạnh từ di sản thiên
nhiên, di sản vật thể. Trong khi đó, các di sản phi vật thể nhiều nhưng lại
chưa được khai thác tương xứng với tiềm năng. Không ít địa phương vẫn loay hoay
trong việc bảo tồn, phát huy di sản trước “sức nóng” của phát triển du lịch.
Ngoài ra, việc phát triển du lịch đại trà, manh mún, thiếu tính toán tại một số
nơi đã và đang có những tác động tiêu cực tới di sản. Ngân hàng thế giới (WB) từng
đưa ra báo cáo, du lịch Việt Nam đã chạm đến điểm bùng phát trong phát triển,
khiến tài sản du lịch văn hóa và thiên nhiên xuống cấp, sự ủng hộ của cộng đồng
địa phương với du lịch không còn.
Du lịch Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới
đang chịu ảnh hưởng nặng nề từ làn sóng dịch Covid-19. Việc nâng tầm thương hiệu
cho du lịch văn hóa là cần thiết và phải được xây dựng kế hoạch từ bây giờ để
khi dịch kết thúc, có thể triển khai ngay.
Theo Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch Hà Văn
Siêu, để khai thác tiềm năng di sản hướng tới xây dựng thương hiệu du lịch quốc
gia, các địa phương cần có kế hoạch, chiến lược dài hạn trong việc quy hoạch lại
hệ thống di sản và phải gắn giá trị văn hóa truyền thống với quy hoạch phát triển
du lịch.
Cụ thể, các doanh nghiệp lữ hành cần phối hợp địa
phương xây dựng những sản phẩm du lịch phù hợp với di sản và văn hóa bản địa; tập
trung khai thác các truyền thống văn hóa đặc trưng của địa phương; đưa di sản
phi vật thể lồng ghép trong các tour du lịch; tránh tối đa tình trạng khai thác
“quá sức”, làm kiệt quệ di sản. Đồng thời, các đơn vị, doanh nghiệp du lịch
cũng cần khảo sát kỹ lưỡng nhu cầu trải nghiệm cũng như khả năng chi trả của du
khách trong tình hình mới để đưa ra những sản phẩm phù hợp.
Công nghệ số đã và đang được áp dụng trong hầu hết
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Lĩnh vực di sản cũng không phải là ngoại lệ,
thậm chí, số hóa di sản còn là “chìa khóa” để nâng tầm thương hiệu cho du lịch
văn hóa. Ở nước ta, điển hình cho ứng dụng công nghệ vào di sản có thể kể tới:
Công trình số hóa 3D đình Tiền Lệ (huyện Hoài Đức, Hà Nội), di tích Văn Miếu -
Quốc Tử Giám, Nhà hát Lớn (Hà Nội). Một số công trình thuộc quần thể di tích cố
đô Huế (Thừa Thiên Huế) cũng đã được ứng dụng công nghệ 3D như: Lăng Tự Đức,
cung An Định, bức tranh Long Vân Khế Hội (chùa Diệu Đế).
Cuối năm 2020, nhóm Sen Heritage cũng đã giới thiệu
tới công chúng trưng bày “Khám phá di sản kiến trúc chùa Một Cột - Diên Hựu thời
Lý bằng công nghệ thực tế ảo” với những trải nghiệm phong phú, sinh động nhờ sử
dụng công nghệ VR3D. Bước vào không gian thực tế ảo, người xem được “đứng trong
di sản, bước đi trong di sản, chạm và ngắm di sản” để có những hình dung rõ nét
nhất về công trình nổi này từ 8 thế kỷ trước.
Gần đây nhất, Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học
Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã đưa vào ứng dụng công nghệ QR code (mã vạch hai chiều)
trên 40 hiện vật, cây xanh và các hạng mục công trình trong khuôn viên di tích.
Theo đó, du khách chỉ cần sử dụng điện thoại thông minh, đặt trước bảng chỉ dẫn
đã cài mã QR code, hệ thống sẽ tự động đăng nhập và chuyển tới điện thoại của
du khách thông tin cơ bản về hiện vật đó.
Đây đều là những thử nghiệm mới mẻ, mang đến những
trải nghiệm sống động, được du khách đánh giá cao. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn
Văn Huy, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát huy giá trị di sản văn hóa
đánh giá cao hiệu quả mà công nghệ số mang lại cho công tác bảo tồn di sản, từ
đó đẩy mạnh phát triển thương hiệu du lịch văn hóa.
Ngoài ra, bên cạnh những hiệu quả về lưu trữ, chi
phí thấp, việc số hóa di sản còn mang lại
hiệu quả về tính trực quan, độ tin cậy cao, từ đó hấp dẫn du khách. Thêm vào
đó, các di sản ở dạng số hóa sẽ được quảng bá nhanh chóng thông qua mạng
internet mà không bị giới hạn về thời gian, địa điểm, ngôn ngữ..., thuận tiện
cho việc lồng ghép quảng bá các điểm đến du lịch, các sản phẩm du lịch đặc
trưng...
Đáng tiếc là việc ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực
di sản chưa được nhân rộng, thiếu sự đồng bộ, hầu hết là các giả thiết nghiên cứu,
đề tài nghiên cứu. Vì thế, cần đẩy nhanh hơn nữa tốc độ số hóa di sản, xây dựng
những sản phẩm du lịch chất lượng cao, từ đó, nâng tầm thương hiệu cho du lịch
văn hóa Việt Nam.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét