Những cơ sở lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Phần 9)
iii)” Công ước UNCLOS
1982 là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền
được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc”.
Kể từ khi chính thức có
hiệu lực vào năm 1994, UNCLOS 1982 luôn khẳng định vai trò của “Hiến pháp của
biển và đại dương” điều chỉnh mọi vấn đề liên quan đến luật biển. Với 168 thành
viên tham gia, UNCLOS 1982 là điều ước quốc tế phổ cập lớn thứ hai, chỉ xếp sau
Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo
trật tự pháp lý trên biển. Công hàm ngày 30/3/2020 cho thấy Việt Nam đã dựa vào
UNCLOS 1982 để xác lập các vùng biển, đồng thời cho thấy Việt Nam ủng hộ cách
tiếp cận của Toà Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông ở các nội dung quan trọng
sau:
Một, “vùng biển của các
cấu trúc luôn nổi tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được xác định
phù hợp với Điều 121(3) của Công ước.” Theo Điều 121(3), đảo đá không thích hợp
cho con người sinh sống hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa. Toà Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông lần đầu
tiên giải thích Điều 121.3 và đi đến kết luận rằng tất cả các cấu trúc nổi nào ở
Trường Sa không có khả năng cho con người sinh sống hoặc duy trì đời sống kinh
tế riêng, do đó, không thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.
Hai, “các nhóm đảo tại
Biển Đông (bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa) không có đường cơ sở được vẽ bằng
cách nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất”. Hoàng Sa và Trường
Sa không phải là quốc gia quần đảo để được áp dụng cách vẽ đường cơ sở quần đảo
theo UNCLOS, do đó không thể xác lập hệ thống đường cơ sở quần đảo bằng cách vẽ
nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất. Tinh thần này đã từng được
Việt Nam khẳng định trong Tuyên bố phản đối hệ thống đường cơ sở thẳng của Trung
Quốc đối với Hoàng Sa năm 1996. Toà Trọng tài trong Vụ kiện Biển Đông kết luận
rằng bất cứ cách vẽ đường cơ sở thẳng nào ở Trường Sa cũng trái với Công ước
UNCLOS. Trên thực tế, cấu trúc địa lý của Hoàng Sa và Trường Sa có những điểm
tương đồng, do đó, việc Việt Nam áp dụng cách tiếp cận của Toà Trọng tài đối với
các thực thể ở Hoàng Sa là phù hợp.
Ba, “các bãi ngầm hoặc cấu
trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng
biển riêng”. Hiện nay, Trung Quốc yêu sách chủ quyền với một số bãi ngầm hoặc cấu
trúc lúc chìm lúc nổi ở Biển Đông. Như đã trình bày ở trên, điều này hoàn toàn
không được UNCLOS 1982 cho phép vì theo quy định, các bãi ngầm hoặc các cấu
trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ, không có vùng
biển riêng. Phán quyết của Toà Trọng tài 2016 cũng kết luận rằng các thực thể
như Vành Khăn (Mischief reef), Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), Xubi (Subi reef),
Nam Gaven (Gaven reef/South), Tư Nghĩa (Hughes reef) là các cấu trúc lúc chìm
lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc, không có vùng biển riêng.
Bốn, “Việt Nam phản đối
các yêu sách ở Biển Đông vượt quá những giới hạn quy định tại Công ước, trong
đó có yêu sách quyền lịch sử; các yêu sách này đều không có giá trị pháp lý.”
Việt Nam đã nhiều lần khẳng định lập trường này. Ngày 12/9/2019, Người Phát
ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khẳng định: “UNCLOS năm 1982 đã xác
định rõ phạm vi và là cơ sở pháp lý duy nhất để các quốc gia xác định quyền hưởng
các vùng biển của mình. Điều này đã được các quốc gia tuân thủ, thừa nhận bởi
các thực tế xét xử cũng như sự đồng tình rộng rãi của các luật sư có uy tín quốc
tế. Do đó, không có nước nào có thể đưa ra các yêu sách về các vùng biển ở khu
vực Biển Đông vượt quá những giới hạn về mặt địa lý và nội dung được quy định
trong UNCLOS năm 1982. […] Những yêu sách bất hợp pháp, không phù hợp với
UNCLOS năm 1982 không thể là cơ sở để khẳng định rằng có tồn tại các vùng biển
tranh chấp hay chồng lấn.”
Về điểm này, Công hàm của Việt Nam đã phản ánh tinh thần của Phán quyết của Toà Trọng tài năm 2016. Theo kết luận của Toà, yêu sách về quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật nằm trong đường chín đoạn là không phù hợp với quy định của Công ước. Toà cho rằng yêu sách đó vượt quá giới hạn vùng biển của Trung Quốc mà UNCLOS cho phép. Trên thực tế, yêu sách quyền lịch sử trong đường chín đoạn của Trung Quốc đã bị cộng đồng quốc tế lên án. Gần đây, ngày 9/4/2020, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra tuyên bố phản đối các yêu sách trên biển bất hợp pháp của Trung Quốc ở Biển Đông và khẳng định ủng hộ kết luận của Toà Trọng tài rằng “Đường chín đoạn của Trung Quốc là yêu sách biển bất hợp pháp.”

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét