Vận dụng UNCLOS 1982 để đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh
Kỷ niệm 40 năm mở ký Công ước Luật Biển 1982 (UNCLOS) và 10 năm Luật
Biển Việt Nam, ngày 18/6, Ban Tuyên giáo Trung ương và Truyền hình Quốc hội Việt
Nam phối hợp tổ chức thực hiện chương trình Tọa đàm với chủ đề “Việt Nam - Đất
nước nhìn từ biển.”
Đặt nền móng thiết lập
một trật tự quốc tế mới trên biển
Đề cập đến ý nghĩa, giá trị của UNCLOS, các vị khách mời nhấn mạnh
ngày 10/12/1982 đánh dấu một sự kiện pháp lý quan trọng trong quá trình phát
triển của luật pháp quốc tế, đó là sự ra đời của một văn kiện được coi như bản
Hiến pháp của biển và đại dương, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển
(UNCLOS). Tiếp theo đó, ngày 16/11/1994, UNCLOS 1982 bắt đầu có hiệu lực.
Sau 4 thập kỷ ra đời, UNCLOS 1982 vẫn còn nguyên giá trị pháp lý.
Đến nay đã có 167 quốc gia tham gia Công ước, trong đó có 164 quốc gia là thành
viên của Liên hợp quốc.
Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 đóng vai trò quan trọng
trong đời sống luật pháp quốc tế, giúp khẳng định chủ quyền trên biển của các
quốc gia, từ đó góp phần gìn giữ môi trường biển, an toàn và hòa bình.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Đại sứ Nguyễn Hồng Thao (thành viên Ủy
ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2027), Công ước Luật biển
năm 1982 là Hiến pháp đại dương bao gồm rất nhiều các điều khoản, bao trùm tất
cả các lĩnh vực của Luật biển quốc tế.
“Công ước đã tạo nền móng để
thiết lập một trật tự quốc tế mới trên biển và cân bằng lợi ích của tất cả các
quốc gia đã phát triển và đang phát triển. Đây là Công ước lần đầu tiên xác định
tất cả các vùng biển ở trên thế giới,” ông Nguyễn Hồng Thao nói.
Công ước cũng đưa ra những quy định chung về bảo tồn tài nguyên,
phát triển tài nguyên một cách bền vững và điều chỉnh tất cả những hoạt động
trên biển, bao gồm nghiên cứu khoa học biển, đặt cáp dưới đáy biển...
Cùng với đó, Công ước cũng là hiến chương, điều lệ cho việc thành
lập ra tất cả những tổ chức quốc tế lớn về biển như Tòa án quốc tế về Luật Biển,
Ủy ban Ranh giới thềm lục địa - cơ quan quyền lực về đáy đại dương. Đặc biệt,
Công ước cũng ra cơ chế để giải quyết những
tranh chấp về biển.
Tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ làm
rõ thêm ý nghĩa, giá trị của UNCLOS. Công ước này không chỉ là thiết lập và xác
lập trật tự pháp lý trên biển mà còn đưa ra những khái niệm rất mới như đường
cơ sở, những vùng đặc quyền và nhiều khái niệm khác.
“Công ước đã chấm dứt tình
trạng lộn xộn, tranh chấp và từ nay mở ra một hành lang pháp lý mới để các quốc
gia có thể dựa vào đấy để bảo vệ, quản lý các quyền và lợi ích hợp pháp trên biển
và đại dương,” Tiến sỹ Trần Công Trục nhấn mạnh.
Tham gia chương trình qua hình thức video, Giáo sư Carl Thayer,
nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới về UNCLOS 1982 cũng như Luật biển quốc tế, thuộc
Đại học New South Wales, Australia cũng cho rằng: “Điểm đặc trưng duy nhất chỉ
có ở UNCLOS, đó là nó đã thiết lập một cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc. Nếu
hai bên xảy ra tranh chấp, họ có thể viện dẫn UNCLOS để giải quyết tranh chấp.
Và quan trọng nhất, đây là một thỏa thuận trọn gói. Có nghĩa là khi bạn đã ký
vào công ước, bạn không thể lựa chọn những phần bạn muốn tham gia. Bạn phải
tuân thủ tất cả các quy định. Nếu chúng ta thực sự muốn một trật tự dựa trên luật
lệ, hãy khiến UNCLOS giống như một trọng tài và khi đưa ra một thẻ đỏ, cầu thủ
phải rời khỏi sân.”
Đại sứ Đặng Đình Quý, nguyên Trưởng Phái đoàn Đại diện Thường trực
Việt Nam tại Liên hợp quốc khẳng định hơn bao giờ hết, cộng đồng quốc tế cần vững
vàng trong việc duy trì quy định pháp lý trên các đại dương như UNCLOS đã thiết
lập. Các quốc gia đều phải tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý của Công ước.
“Muốn duy trì hòa bình và an ninh quốc tế trên không gian biển, phải
áp dụng UNCLOS. Đó là áp dụng theo cách mà đại đa số các nước trên thế giới đồng
ý. Cho nên, UNCLOS có vai trò ngày càng quan trọng đối với việc duy trì hòa
bình, an ninh trên biển, đối với việc khai thác biển một cách bền vững, vì lợi
ích của từng nước và vì lợi ích của tất cả," Đại sứ Đặng Đình Quý nhấn mạnh.
Để Việt Nam tiến ra biển,
trở thành quốc gia mạnh từ biển
Nhấn mạnh Việt Nam là một quốc gia biển, có bờ biển dài hơn 3.260
km, với 4000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
đồng thời có đến 28 tỉnh, thành phố/63 tỉnh, thành phố giáp biển, có nhiều lợi
ích gắn liền với biển, các vị khách mời cho biết nhận thức rõ tầm quan trọng của
biển đảo, Việt Nam đã tích cực tham gia quá trình đàm phán xây dựng UNCLOS.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Đại sứ Nguyễn Hồng Thao, ngay sau khi
thống nhất đất nước năm 1975, chỉ hai năm sau, Việt Nam đã cử đoàn cán bộ tham
dự các hội nghị của Liên hợp quốc về Luật Biển và tiếp thu những tinh thần của
dự thảo văn kiện của UNCLOS.
Điều nay đã góp phần để Việt Nam trở thành quốc gia Đông Nam Á đầu
tiên ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa, ngày 12/5/1977.
Tiếp sau đó, đến khi Việt Nam ban hành Luật Biển năm 2012, chúng
ta đã có tới có hơn 500 văn bản pháp quy ở Trung ương và địa phương liên quan đến
quản lý Nhà nước về biển đảo.
“Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên mà sau này đã được khẳng định trong
Luật Biển năm 2012, giúp chúng ta có cơ sở pháp lý phù hợp với Luật Biển quốc tế
để tiến ra biển, trở thành quốc gia mạnh từ biển”, ông Nguyễn Hồng Thao nhấn mạnh.
Sau khi UNCLOS được thông qua, Việt Nam là một trong 107 nước đầu
tiên ký và sớm tiến hành thủ tục phê chuẩn. Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Nghị quyết về việc phê chuẩn UNCLOS.
Bằng việc phê chuẩn UNCLOS, Việt Nam đã tỏ rõ ý chí thực hiện các
quyền trong các giới hạn cho phép của UNCLOS, có tính đến quyền tự do của các
quốc gia khác.
Đề cập đến Luật Biển Việt Nam, các vị khách mời đã khẳng định việc
trở thành thành viên UNCLOS đòi hỏi Việt Nam phải có một đạo luật riêng và tổng
thể về biển.
Trong bối cảnh đó, ngày 21/6/2012, Luật Biển Việt Nam đã được Quốc
hội Việt Nam thông qua, có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2013. Luật Biển Việt Nam được
xây dựng trên cơ sở các quy định của UNCLOS và pháp luật quốc tế.
Đây là một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của hệ thống
pháp luật Việt Nam nói chung, cũng như trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
các quy định pháp luật liên quan đến biển đảo nói riêng.
Theo ông Nguyễn Chu Hồi (đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Thường trực
Hội Nghề cá Việt Nam), Luật Biển Việt Nam 2012 có một quá trình chuẩn bị khá
lâu dài, trên tinh thần chúng ta tuân thủ và vận dụng một cách tốt nhất UNCLOS,
kết hợp lợi ích quốc gia và nhiệm vụ quốc tế đối với những quy định của Công ước
Luật Biển của Liên hợp quốc vào hoàn cảnh Việt Nam, thể hiện trong tinh thần và
những quy định cụ thể của Luật Biển Việt Nam 2012.
Trong phần thảo luận của mình, các vị khách mời đã đưa ra những kiến
giải, và những đề xuất để Việt Nam phát huy giá trị của UNCLOS 1982, Luật Biển
Việt Nam năm 2012 nhằm hiện thực hóa mục tiêu mà Nghị quyết số 36-NQ/TW của Hội
nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển bền vững kinh
tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng như Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng.
Đó là đến năm 2030 đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh và tầm
nhìn đến năm 2045 là Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững,
thịnh vượng, an ninh, an toàn.
Theo đó, các vị khách mời nhấn mạnh đến việc phát triển kinh tế biển, du lịch biển gắn chặt với bảo vệ bền vững môi trường biển; xác định rõ và đầu tư trọng điểm vào các ngành kinh tế biển mũi nhọn; ứng dụng thành tựu của Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 trong quản lý, phát triển kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển…/.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét