Home » vanhoa
Chủ Nhật, 18 tháng 2, 2018
Bảo đảm quyền văn hóa cho các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
Khi xem xét, đánh giá về vấn đề dân tộc, nếu chỉ nhìn
nhận về trình độ kinh tế của các dân tộc thiểu số (DTTS) một cách đơn thuần thì
dễ đưa ra nhận định chủ quan, phiến diện về đời sống thực tế.
Muốn hiểu đúng bản chất, khách quan, toàn diện về vấn
đề dân tộc thì ngoài việc bảo đảm về quyền chính trị, kinh tế, xã hội, không thể
không tính đến một yếu tố rất quan trọng, đó là việc bảo đảm quyền văn hóa cho
các DTTS có được hiện thực hóa trong thực tế hay không.
Chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS luôn
được coi trọng
Xuất phát từ những điều kiện lịch sử, tự nhiên, xã hội,
hầu hết các DTTS ở Việt Nam cư trú, lao động sản xuất ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, biên giới. Tuy chỉ chiếm tỷ lệ dân số nhỏ, song các DTTS Việt Nam là một
phần máu thịt của dân tộc Việt Nam. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, 53
DTTS là đối tượng dễ bị “tổn thương văn hóa” trong quá trình phát triển, vì vậy,
Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định, cùng với chăm lo phát triển kinh tế-xã hội,
bảo đảm an sinh, xóa đói giảm nghèo, việc bảo tồn, phát huy văn hóa các DTTS vừa
là nhiệm vụ cấp thiết, vừa có ý nghĩa chiến lược phải thực hiện kiên trì, lâu
dài.
Việc coi trọng bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa
các DTTS được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Cương lĩnh Xây dựng đất nước
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); đặc biệt,
được thể hiện sâu sắc tại hai nghị quyết chuyên đề về văn hóa. Một trong 10 nhiệm
vụ cụ thể được nêu ra tại Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (năm 1998) là “Bảo tồn,
phát huy, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số”, trong đó nhấn mạnh đến việc
đầu tư và tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hóa,
văn học, nghệ thuật các DTTS. Nghị quyết số 33-NQ/TW khóa XI về “Xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước” (năm 2014) định hướng phải giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các DTTS,
nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống của các DTTS.
Để bảo đảm các quyền của các DTTS, Điều 42 Hiến pháp
2013 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ
đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”. Trước đó, Điều 7, Luật Giáo dục 2005 cũng ghi
rõ: “Nhà nước tạo điều kiện để người DTTS được học tiếng nói, chữ viết của dân
tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giúp cho học sinh
người DTTS dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở
giáo dục khác”. Thông qua quy định này nhằm bảo đảm cho các DTTS có quyền tự do
quyết định vị thế xuất thân cũng như thể hiện quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết
của dân tộc mình-đây là những vấn đề căn cốt để khẳng định quyền bình đẳng của
các DTTS trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Không chỉ đề ra chủ trương, luật pháp, Nhà nước Việt
Nam đã chủ động lắng nghe, tiếp thu những ý kiến từ chính bà con DTTS để hoàn
thiện chính sách phù hợp với lòng dân. Cách đây 3 năm (tháng 8-2015), Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đã mời hơn 50 đại biểu là già làng, trưởng bản, nghệ
nhân, người có uy tín thuộc các DTTS (Pà Thẻn, Cờ Lao, Pu Péo, Lô Lô, Ngái, La
Hủ, Lự, Mảng, Cống, Si La, La Ha, Bố Y, Chứt, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm) về Thủ đô Hà
Nội tham dự Hội nghị-hội thảo “Giải pháp Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa của
16 DTTS có số dân dưới 10.000 người”. Tại đây, người dân không chỉ nêu lên tâm
tư, nguyện vọng mà còn trực tiếp góp ý, đề xuất với Đảng, Nhà nước nhiều vấn đề
tâm huyết về bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa các DTTS.
Những kết quả hiện thực sinh động trong thực tiễn
Mọi chủ trương, chính sách chỉ có giá trị khi đi vào
thực tiễn và được thực tiễn kiểm chứng. Điều đó được thể hiện ở Đề án “Bảo tồn,
phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020” được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27-7-2011. Bám sát phương châm “Đồng
bào các DTTS là chủ thể văn hóa đề xướng, thực hiện và thụ hưởng”, với số vốn
thực hiện trên 1.500 tỷ đồng, đến nay đề án đã, đang được triển khai sâu rộng,
trong đó tập trung ưu tiên phát triển văn hóa các DTTS rất ít người, các dân tộc
không có điều kiện tự bảo vệ và phát huy di sản văn hóa của dân tộc mình. Hiện
nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã hoàn thành việc rà soát, thống kê và hỗ
trợ khẩn cấp, nâng cao năng lực tự bảo vệ trước nguy cơ mai một văn hóa của các
DTTS dưới 10.000 người, đặc biệt là 10 dân tộc, gồm: Brâu, Rơ Măm, Si La, Pu
Péo, Bố Y, Ơ Đu, Lô Lô, Mảng, Cống, Cờ Lao.
Nhờ có nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước, những năm gần
đây, nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp, nhiều nghi lễ đặc sắc, nhiều trò chơi
dân gian của các DTTS được khôi phục, phát huy trong ngày hội văn hóa diễn ra
trên khắp mọi miền đất nước. Nhiều ngày hội văn hóa vùng miền, như: Tây Bắc,
Đông Bắc, miền Trung, miền Đông Nam Bộ… được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ
chức 2-3 năm/lần. Những nét đẹp về dân ca, dân vũ, dân nhạc, lễ hội, trang phục
truyền thống, ẩm thực của nhiều DTTS tưởng như bị “phủ” một lớp bụi thời gian,
nay được khôi phục, giới thiệu để đông đảo công chúng biết đến khi các địa
phương tổ chức các ngày hội riêng của các dân tộc, như: Mông, Mường, Hoa, Thái,
Chăm, Khmer…
Tại Thủ đô Hà Nội, từ năm 2010 đến nay, du khách trong
nước và quốc tế cũng có điều kiện trực tiếp tham gia trải nghiệm không gian văn
hóa của các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Mông, Khmer, Chăm, Lô Lô, Ê Đê, Ba Na, Gia
Rai, Mường… do chính các nghệ nhân, bà con DTTS trình diễn tại Làng Văn hóa-Du
lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, thị xã Sơn Tây). Từ 10 năm qua, Ngày văn
hóa các dân tộc Việt Nam 19-4 được tổ chức thường niên trở thành ngày hội gặp gỡ,
giao lưu văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Theo các chuyên gia nghiên cứu
văn hóa, việc tổ chức ngày hội văn hóa ở các địa phương cũng như Ngày văn hóa
các dân tộc Việt Nam không những đã “cứu” được nhiều giá trị văn hóa của các
DTTS trước nguy cơ bị mai một trong đời sống đương đại, mà còn tạo cơ hội cho mỗi
DTTS thêm một lần nêu cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tự khẳng định những giá
trị văn hóa độc đáo của dân tộc mình và đó cũng là một cách để bảo đảm quyền
văn hóa nhìn từ chiều sâu nhân văn nhất.
Cùng với tạo điều kiện cho văn hóa các DTTS được bảo tồn,
phát huy, những năm qua, các cấp chính quyền cũng đã có những việc làm thiết thực
để đồng bào từng bước cải thiện, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần. Đến nay,
phần lớn các thôn, bản, phum, sóc, bản, mường ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn đã hoàn thành và đang xây dựng nhà văn hóa theo tiêu chí xây dựng nông
thôn mới. Trong 5 tiêu chí của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững
giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định số 1722/QĐ-TTg ngày 2-9-2016 của Thủ tướng
Chính phủ, có 2 tiêu chí liên quan đến bảo đảm quyền văn hóa cho đồng bào các
DTTS, đó là giáo dục và tiếp cận thông tin. Theo đó, đến năm 2020, 100% xã có mạng
lưới trường mầm non, phổ thông, trung tâm học tập cộng đồng đủ để đáp ứng nhu cầu
học tập và phổ biến kiến thức cho người dân; 90% các hộ dân thuộc địa bàn huyện
nghèo, xã nghèo được tiếp cận, cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước; hỗ trợ phương tiện nghe-xem cho khoảng 10.000 hộ nghèo. Cụ thể
hóa đề án trên, mấy năm gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định cấp miễn phí
18 đầu báo, tạp chí cho các xã thuộc vùng DTTS và miền núi, vùng đặc biệt khó
khăn. Cuối tháng 11-2017, Thủ tướng Chính phủ cũng quyết định cấp radio miễn
phí cho các già làng, trưởng bản, người có uy tín, chức sắc tôn giáo và trưởng
các tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng cấp thôn (thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu
chiến binh…) ở các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu, Nghệ An, Quảng Nam, Kon
Tum, Đăk Nông, Ninh Thuận, Trà Vinh, Kiên Giang.
Một tờ báo, một chiếc radio có thể không đáng là bao với
những người có điều kiện kinh tế, nhưng đó là tài sản văn hóa rất ý nghĩa với
những người DTTS nghèo. Hơn thế, nói mộc mạc như bà con dân tộc, đó chính là cầu
nối thông tin giữa Chính phủ và đồng bào, là ánh sáng văn hóa của Đảng soi rọi
cho người dân vùng sâu, vùng xa nỗ lực vượt qua khó khăn để vươn tới cuộc sống
no ấm, văn minh.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét