Home » thoisu
Thứ Năm, 22 tháng 2, 2018
Những bước tiến mới trên lĩnh vực quyền con người của Việt Nam
Tôn trọng và
bảo đảm quyền con người luôn là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta.
Trong các thời kỳ khác nhau, quyền con người ở Việt Nam đạt được những kết quả
tương xứng. Những năm qua, việc bảo đảm quyền con người ở nước ta có những bước
tiến mới, đó là hiện thực mà không một ai có thể phủ nhận được.
Không phủ nhận
rằng, trong những thời kỳ lịch sử trước đây, như: trong cách mạng giải phóng
dân tộc, kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước (1945 - 1975) và trong
thời kỳ xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa theo mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ
(1975 - 1986), do nhiều yếu tố, Đảng, Nhà nước ta chưa có điều kiện để bảo đảm
đầy đủ các quyền con người.
Sau khi Liên
Xô tan rã, các nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, các thế lực
thù địch trong và ngoài nước đã đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa
bình” chống phá chế độ xã hội, Nhà nước ta, hòng chuyển hóa chế độ ta sang mô
hình “dân chủ, nhân quyền” ngoại nhập. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta một
mặt, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; mặt khác, vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thay đổi mô
hình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, từ mô hình kiểu cũ sang mô hình kiểu mới.
Đảng ta khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;… ”1 và “Con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc,
đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”2. Do vậy, quyền con người ở nước ta đạt
được những thành tựu quan trọng. Đó là những bước tiến mới về nhân quyền ở nước
ta không thể phủ nhận.
Trước hết, về
mặt pháp lý, dựa trên Cương lĩnh, đường lối của Đảng cho đến nay, Việt Nam đã
gia nhập hầu hết các công ước quốc tế chủ chốt về quyền con người. Trong đó có
2 công ước cơ bản quy định đầy đủ các quyền con người. Đó là “Công ước quốc tế
về các Quyền Dân sự, Chính trị”, 1966; “Công ước quốc tế về các Quyền Kinh tế,
Xã hội và Văn hóa”, 1966. Đồng thời, Việt Nam đã ký kết, gia nhập các công ước
chuyên biệt. Đó là “Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc”,
“Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ”,... và gần đây
(năm 2014) là “Công ước chống Tra tấn”. Việt Nam cũng đã tham gia 20 công ước của
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong đó có 5 công ước cơ bản về lao động, việc
làm, v.v. Thực hiện các cam kết quốc tế, Nhà nước ta đã nội luật hóa các công ước
nói trên vào hệ thống pháp luật quốc gia.
Năm 2013, lần
đầu tiên, Hiến pháp Việt Nam đã dành cả một chương - chương II - quy định về
“Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Khoản 1, Điều 14 của
Hiến pháp quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Có thể nói, Hiến
pháp năm 2013 cùng với hệ thống pháp luật hiện nay của Nhà nước ta không chỉ
tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người, mà còn được cộng đồng
quốc tế đánh giá là một trong những hệ thống pháp luật tiến bộ hàng đầu trên thế
giới. Chính vì vậy, Việt Nam đã trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp
quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016), Hội đồng Kinh tế - Xã hội (2016 - 2018) và gần
đây, được bầu vào Ủy ban Pháp luật Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2016 - 2021)3.
Trong những
năm qua, các quyền con người trên lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa được Đảng
và Nhà nước quan tâm và đạt được những thành quả to lớn: tốc độ tăng trưởng
kinh tế được duy trì ở mức khá, thu nhập bình quân đầu người từ 1.024 USD/năm
(năm 2008) đã tăng lên 2.200 USD (ước tính năm 2016). Việt Nam đã gia nhập nhóm
các nước thu nhập trung bình thấp từ năm 2010; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, từ
13,7% năm 2008 xuống dưới 5% vào năm 2015.
Là quốc gia
còn nghèo, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho nhóm nghèo, đồng
bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Chương trình 135 “hỗ trợ đầu tư
cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn” là một
ví dụ. Chương trình 135 giai đoạn III (2016 - 2020)4 đã được Nhà nước đầu tư
239.316,6 tỷ dành cho xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Nhà nước
đã dành gói hỗ trợ 30 nghìn tỷ đồng (triển khai từ tháng 6-2013) giúp người
thu nhập thấp ở đô thị cải thiện chỗ ở.
Gần đây, Nhà
nước đã quyết định giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện mức lãi suất
thấp cho người vay là 4,8%/năm, thời hạn cho vay tối thiểu là 15 năm và tối đa
không quá 25 năm, kể từ ngày giải ngân khoản vay đầu tiên. Tương tự như chính
sách đối với người nghèo, cho đến nay, Ngân hàng Chính sách xã hội đã cho hàng
trăm ngàn học sinh, sinh viên nghèo vay với lãi suất thấp.
Trên một
bình diện khác, việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, tất yếu phải đấu tranh với
những cá nhân, tổ chức lợi dụng chức vụ, địa vị xâm hại các nguồn lực kinh tế của
xã hội và Nhà nước. Trong thời gian qua, theo sự chỉ đạo của Đảng, nhiều vụ việc,
vụ án đã được điều tra, hoặc đưa ra xét xử. Đó là việc Chính phủ giao cho cơ
quan chức năng thanh tra Dự án Núi Pháo tại Thái Nguyên về nhiều mặt; Dự án
Mobifone (mua 95% cổ phần của Công ty cổ phần nghe nhìn Toàn Cầu (AVG) đang
thua lỗ lớn, có dấu hiệu mờ ám về tài chính), gây thất thoát hàng nghìn tỷ đồng
ngân sách nhà nước. Hoặc đưa ra xét xử vụ án Ngân hàng Xây dựng Việt Nam do Phạm
Công Danh (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị) làm thất thoát hơn 9.000 tỷ đồng.
Liên quan đến
các dự án xây dựng đường giao thông theo hình thức BOT, Chính phủ đã yêu cầu Bộ
Giao thông Vận tải tổng kết và đánh giá lại 5 năm thực hiện xã hội hóa đầu tư hạ
tầng giao thông (bao gồm tiến hành kiểm toán, quyết toán chặt chẽ các dự án BOT
để xác định mức phí và thời hạn thu phí); kiểm tra phí đường bộ (theo phương thức
BOT) yêu cầu nhà đầu tư phải minh bạch về chi phí, thu phí trước công luận. Đây
là những ví dụ về việc bảo vệ lợi ích của người dân một cách thiết thực.
Dân làng
Plei Tơ Nghia, thành phố Kon Tum biểu diễn cồng chiêng mừng Ngày bầu cử, ngày
22-5-2016. (Ảnh: nhandan.com.vn)
Thứ hai, quyền
con người về mặt dân sự, chính trị đã có những thành quả to lớn. Cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XIV là một ví dụ. Tổng số cử tri đi bầu lên đến 67.485.480
người; số cử tri đã bỏ phiếu đạt 99,35%. Về cơ cấu đại biểu, trong số 500 đại
biểu có 86 người là dân tộc thiểu số, 133 người là phụ nữ, 21 người ngoài Đảng,
v.v. Trình độ văn hóa của đại biểu Quốc hội khóa XIV cao nhất so với các khóa
trước: trên đại học 310 người (chiếm 62,50%), đại học 180 người (36,30%), dưới
đại học 6 người. Tỷ lệ đại biểu là phụ nữ và là người dân tộc thiểu số của Quốc
hội ta so với nhiều quốc gia ở khu vực thuộc vào loại cao. Lần đầu tiên Việt
Nam có Chủ tịch Quốc hội là nữ.
Hoạt động Quốc
hội trong những năm qua, nhất là những năm 2015, 2016 đã có những đổi mới theo
hướng thực hiện tốt hơn cơ chế “kiểm soát” quyền lực, xem xét kỹ các Báo cáo của
Chính phủ và các ngành. Đồng thời, các đại biểu cũng đã chuyển tải khá đầy đủ ý
kiến của cử tri đến diễn đàn Quốc hội, v.v. Theo dõi các kỳ họp Quốc hội, người
ta thấy các đại biểu đã đặt nhiều câu hỏi thẳng thắn yêu cầu các thành viên
Chính phủ phải minh bạch hóa các thông tin và giải trình những chương trình, dự
án (như dự án thủy điện, dự án vay vốn nước ngoài, dự án xây sân bay, điện hạt
nhân,…) mà người dân và giới khoa học quan tâm. Mới đây, sự kiện Công ty Hưng
Nghiệp Formosa Hà Tĩnh xả thải gây ra sự cố môi trường nghiêm trọng, hủy hoại
môi trường biển, ảnh hưởng cuộc sống của gần 300 ngàn người ở 4 tỉnh miền
Trung; hoặc “sự cố truyền thông” (tháng 10-2016) liên quan đến thông tin về
Asen trong nước mắm do Hội Bảo vệ người tiêu dùng công bố, đã trở thành những
chủ đề “nóng” trong sinh hoạt Quốc hội, v.v.
Trong thời
gian qua, nhằm đưa Hiến pháp năm 2013 (trong đó có quyền con người) vào cuộc sống,
ba vụ trọng án đã được đưa ra xem xét lại. Đó là vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn bị
bắt và tù oan từ năm 2003, vụ án ông Huỳnh Văn Nén bị bắt và tù oan từ năm
1998, vụ án ông Trần Văn Thêm bị bắt và tù oan từ năm 1970 đến nay đã được minh
oan, công khai xin lỗi và bồi thường.
Thứ ba, quyền
tự do ngôn luận, báo chí được tôn trọng, mở rộng. Hiện nay cả nước có 105 báo,
tạp chí (tăng 7 báo so với năm 2014). Trong đó có 83 báo, tạp chí điện tử của
cơ quan báo chí in và 22 báo, tạp chí điện tử độc lập. Tổng số trang thông tin
điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí được cấp phép hoạt động là 248. Trong
5 năm qua, đã tăng 44 cơ quan báo chí điện tử. Về phát thanh, truyền hình, hiện
cả nước có 67 đài; trong đó, có các đài quốc gia là Đài Truyền hình Việt Nam và
Đài Tiếng nói Việt Nam.
Ngoài hệ thống
thông tin, báo chí, truyền thông trong nước, người dân Việt Nam ngày nay còn được
tiếp cận với hàng chục hãng thông tấn, báo chí và kênh truyền hình nước ngoài,
như: Reuters, BBC, VOA, AP, AFP, CNN và nhiều báo, tạp chí quốc tế lớn khác.
Có thể nói ở
Việt Nam cho đến nay đã có gần như đầy đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho “thế giới
phẳng”. Các công cụ tìm kiếm, lưu trữ thông tin trên in-tơ-nét, như: Google,
Yahoo, YouTube,… đến các trang mạng xã hội trong và ngoài nước, các web, blog
cá nhân đều có thể truy cập bất cứ lúc nào. Theo đánh giá của nhiều tổ chức quốc
tế, mạng Facebook ở Việt Nam phát triển nhanh nhất khu vực. Với in-tơ-nét, người
dân Việt Nam có thể trực tiếp thể hiện trên cả hai tư cách: người tiếp cận
thông tin và người sử dụng in-tơ-nét. “Cư dân mạng” lúc nào cũng có thể đọc
tin, viết bài, bình luận, chia sẻ trên mạng về bất cứ vấn đề gì. Có người cho rằng,
ở Việt Nam, in-tơ-nét đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh
thần xã hội.
Tuy nhiên, để
bảo vệ quyền con người với tư cách là lợi ích xã hội và quyền của cá nhân, Nhà
nước ta đã phải xử lý những trường hợp lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tự do sử dụng in-tơ-nét vi phạm pháp luật, vi phạm quyền cá nhân. Vừa
qua, Cơ quan An ninh điều tra, Công an tỉnh Khánh Hòa đã tống đạt quyết định khởi
tố bị can, thực hiện lệnh bắt tạm giam và khám xét đối với Nguyễn Ngọc Như Quỳnh
về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (quy định
tại Điều 88, Bộ luật Hình sự). Hoặc Bộ Thông tin và Truyền thông đã tạm thời
đình chỉ báo PetroTimes và thu thẻ nhà báo của Tổng biên tập vì đã đăng tải bài
trả lời phỏng vấn của “Người buôn gió”5 - Bùi Thanh Hiếu, trả lời phỏng vấn về
vụ Trịnh Xuân Thanh. Bài phỏng vấn đã đưa tin sai sự thật và xâm phạm danh dự của
cá nhân, tổ chức.
Thứ tư, Đảng
và Nhà nước ta xem việc tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo; quyền của các dân tộc thiểu số là nghĩa vụ của mình, hơn nữa là một phần
nền tảng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên thực tế, Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho tín đồ tôn giáo, bảo đảm
cho các tôn giáo phát triển hài hòa, đồng hành cùng dân tộc. Giáo hội các tôn
giáo khi được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp
bảo hộ, quan tâm và tạo thuận lợi để hoạt động bình thường. Ở Việt Nam, không một
tôn giáo nào (hoạt động trong khuôn khổ pháp luật) bị cấm đoán. Không một công
dân nào bị ép buộc theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào.
Để bảo đảm
các quyền về kinh tế - xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số, Nhà nước ta đặc
biệt chú ý đến xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Hiện đã có 92% số xã có đường
ô tô đến trung tâm xã; 95% số xã có điện; 80% số xã có thủy lợi nhỏ; 65% số
xã có công trình nước sinh hoạt. Việc bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục là mục
tiêu cơ bản trong chính sách phát triển của Nhà nước Việt Nam. Hệ thống cơ sở vật
chất đã được xây dựng tương đối đồng bộ ở tất cả các xã vùng dân tộc thiểu số
cùng hệ thống điểm trường ở thôn, bản, hệ thống các trường dân tộc nội trú, trường
bán trú dân nuôi, cùng với chính sách hỗ trợ sinh hoạt phí cho học sinh nghèo
đã giúp cho con em đồng bào dân tộc thiểu số có cơ hội đến trường, tiếp cận nền
giáo dục quốc gia. Đến năm 2012, tỷ lệ biết chữ (phạm vi từ 10 tuổi trở lên)
trong đồng bào dân tộc thiểu số là 83,8% - một con số rất đáng mừng so với thời
kỳ trước năm 1975. Hệ thống y tế, đặc biệt là mạng lưới y tế cơ sở được củng cố
và phát triển rộng khắp, kể cả ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Mạng lưới trạm y tế đã phủ tới 99% số xã. Hệ thống bệnh viện đa khoa tuyến
huyện bao phủ tất cả các huyện vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong cả nước.
Thứ năm, quyền
của nhóm xã hội dễ bị tổn thương, yếu thế (trong đó có nữ giới, trẻ em) được Đảng
và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hiện nay, cả nước có hơn 26 triệu trẻ em, trong
đó có khoảng 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và gần 2,5 triệu trẻ em có
nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặt biệt6. Hằng năm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức liên quan và các địa phương phát động
“Tháng hành động vì trẻ em” (tháng 6) nhằm vận động toàn xã hội chung tay bảo vệ,
chăm sóc trẻ em, tạo môi trường sống an toàn, lành mạnh để trẻ em phát triển
toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần. Chăm sóc về y tế được Nhà nước ta đặc
biệt chú ý.
Chương trình
“Trái tim cho em” do Đài Truyền hình Việt Nam và Tập đoàn Viễn thông Quân đội
Viettel tổ chức, sau 7 năm thực hiện đã quyên góp được 90 tỷ đồng và hỗ trợ phẫu
thuật thành công cho 2.700 em nhỏ dưới 16 tuổi mắc bệnh tim bẩm sinh, có hoàn cảnh
khó khăn.
Về quyền của
nữ giới, từ năm 2010 đến nay, Quốc hội đã ban hành 40 đạo luật. Trong đó, quyền
của nữ giới đã được lồng ghép đầy đủ trong hệ thống pháp luật Quốc gia. Chương
trình hành động Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 - 2020 với mục tiêu
“Giảm khoảng cách giới và nâng cao vị thế của phụ nữ trong một số lĩnh vực,
ngành, vùng, địa phương có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ bất
bình đẳng giới cao, góp phần thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020”7.
Trong cơ
quan lãnh đạo Đảng (khóa XII) có tới 3 thành viên của Bộ Chính trị là nữ, chiếm
15,78%; hơn 50% trong các bộ, ngành, cơ quan trung ương có cán bộ nữ giữ vị trí
chủ chốt.
Trong lĩnh vực
lao động - việc làm, hiện nay lao động nữ vẫn duy trì ở mức cao và đạt 48,3%
trong tổng số lực lượng lao động cả nước; phụ nữ tham gia điều hành, quản lý
doanh nghiệp đạt 24,9%. Trong lĩnh vực sức khỏe, tỷ lệ tử vong ở người mẹ đã giảm
hơn 3 lần, từ 233 bà mẹ/100.000 trẻ vào năm 1990 xuống còn 59 bà mẹ/100.000 trẻ
vào năm 2014 và ước năm 2015 là 58,3 bà mẹ/100.000 trẻ.
Thứ sáu, hợp
tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người đã được Nhà nước ta thúc đẩy mạnh mẽ.
Trước hết, đó là thể chế chính trị của Nhà nước, chế độ xã hội ta đã được các
quốc gia tôn trọng. Trong Văn kiện đối tác Toàn diện được Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang và Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama ký kết (7-2013) đã khẳng định:
“nguyên tắc các bên tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, tôn
trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”.
Nguyên tắc này đồng nghĩa với việc Hoa Kỳ tôn trọng chế độ xã hội do Đảng ta
lãnh đạo, tôn trọng hệ thống pháp luật Việt Nam. Những khác biệt nào đó giữa
hai bên chỉ có thể rút ngắn thông qua đối thoại và hợp tác bình đẳng. Trong những
năm qua, Nhà nước ta đã thực hiện đối thoại về nhân quyền với nhiều quốc gia, tổ
chức và đón nhiều đoàn đại diện của cơ quan nhân quyền của Liên hợp quốc. Gần
đây, Việt Nam đã đối thoại với Australia, Hoa Kỳ, Thụy sỹ, EU, v.v.
Bảo đảm quyền
con người là mục tiêu của mọi quốc gia. Thành quả về quyền con người của Việt
Nam là rất lớn, đã và đang hiện hữu mà không ai có thể phủ nhận được. Tuy
nhiên, Việt Nam vẫn đang đứng trước nhiều thách thức. Được sống trong môi trường
trong lành đã được cộng đồng quốc tế xem là một quyền cơ bản và quan trọng của
mọi người. Thế nhưng, tình trạng môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng là một
thách thức lớn về quyền con người của chúng ta.
Trên lĩnh vực
bảo đảm quyền dân sự, chính trị trong bối cảnh kinh tế thị trường, thách thức lớn
đối với chúng ta hiện nay là tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tình trạng
quan liêu, tham nhũng, lợi ích nhóm,… của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) đã chỉ ra không chỉ tác động tiêu cực đến niềm
tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, mà còn tác động tiêu cực đến việc bảo
vệ quyền con người của nhân dân ta.
Tuy nhiên,
chúng ta có đầy đủ cơ sở để tin rằng, đi theo con đường của chủ nghĩa Mác –
Lê-nin, thực hiện Cương lĩnh của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nhất
định nhân dân ta sẽ ngày càng có cơ hội hưởng thụ đầy đủ hơn các quyền con người.
TS. CAO ĐỨC
THÁI, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét