Home » thoisu
Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2018
Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi đường cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả của những
năm bôn ba, lăn lộn trong hoạt động thực tiễn, nghiên cứu, học tập, vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể ở nước ta. Tư
tưởng đó vẫn mãi là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam.
Nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dưới ách đô hộ của
thực dân Pháp, các sĩ phu yêu nước đã liên tiếp đứng lên tổ chức các phong trào
cứu nước, từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản và qua khảo
nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại. Đất nước ta bị giày xéo dưới gót sắt của
kẻ thù hung ác, “tình hình đen tối như không có đường ra”. Trong bối cảnh đó,
ngày 05-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Sài Gòn ra nước
ngoài tìm con đường giải phóng dân tộc. Trong hành trình bôn ba ấy, Người đã gặp,
đọc và hiểu rõ ý nghĩa lớn lao của bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê-nin đăng trên báo L’Humanite
(Nhân đạo) của Đảng Xã hội Pháp, ngày 16 và 17-7-1920. Nghiên cứu Luận cương
này, Người khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc gắn liền
với cách mạng vô sản.
Những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc truyền bá
chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam, phát triển các điều kiện về chính trị, tư tưởng, lý luận, tổ chức, cán bộ
để thành lập một Đảng chân chính cách mạng. Người đã vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin phù hợp với đặc điểm, thực tiễn Việt Nam. Thông qua
các tác phẩm nổi tiếng như: “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), “Đường kách mệnh”
(1927) và nhiều tác phẩm khác, Người đã xây dựng hệ tư tưởng cách mạng đặc sắc,
có ảnh hưởng đặc biệt tới phong trào cách mạng. Tiêu biểu như: tư tưởng nêu cao
mục tiêu giải phóng dân tộc, gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội và con người; nêu cao sức mạnh của công nhân, nông dân - công
nông là gốc của cách mạng - đồng thời đoàn kết toàn dân tộc; vai trò chủ động của
cách mạng ở các thuộc địa, phối hợp với cách mạng ở chính quốc nhưng không phụ
thuộc vào cách mạng ở chính quốc (tức các nước tư bản, đế quốc phương Tây). Người
nhấn mạnh vai trò to lớn của cách mạng ở các nước phương Đông; phải tiến hành
cách mạng triệt để chứ không thể là cải cách, cải lương; cách mạng trước hết phải
có một Đảng cách mạng; nêu cao chủ nghĩa quốc tế, tranh thủ giúp đỡ quốc tế
nhưng phải nêu cao ý chí tự lực, tự cường dân tộc, “muốn người ta giúp cho, thì
trước mình phải tự giúp lấy mình đã”.
Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng cách mạng của Người đã quy tụ, đoàn kết những chiến
sĩ cộng sản, cùng một ý chí, cùng một quyết tâm hy sinh chiến đấu cho một lý tưởng
cao cả. Tư tưởng đó đã thể hiện ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên tại Hội
nghị thành lập Đảng, với mục tiêu chiến lược là đánh đổ đế quốc Pháp và chế độ
phong kiến, “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “để đi tới xã hội cộng sản”3.
Ngày 28-01-1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc, cùng Trung ương Đảng phát triển
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, đưa sự nghiệp cách mạng phát triển mạnh
mẽ. Tư tưởng của Người là cách mạng phải bắt đầu từ nhân dân, có dân thì có tất
cả, phải đoàn kết toàn dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết;
xây dựng căn cứ địa cách mạng vững chắc, xây dựng lực lượng chính trị của quần
chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Hồ Chí Minh phát triển phong phú tư tưởng
về chiến lược và sách lược cách mạng; về lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp; về
tình thế và thời cơ cách mạng; về ý chí tự lực, tự cường dân tộc và tranh thủ
điều kiện quốc tế; về khoa học, nghệ thuật khởi nghĩa toàn dân, vũ trang toàn
dân. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945
- một trong những thành tựu vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.
Thắng lợi đó đã mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, gắn liền độc lập dân tộc
với phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Sau khi nước nhà được độc lập, tư tưởng nổi bật của Hồ
Chí Minh là xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, xây dựng chế độ
mới để mọi người dân được tự do, hạnh phúc. Theo Bác, “Chúng ta phải hiểu rằng,
các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của
dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải
hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Nhà nước lo việc nội
trị, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, xây dựng đời sống mới,
lo việc kháng chiến bảo vệ nền độc lập và lo về chiến lược ngoại giao. Tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh là thêm bạn, bớt thù, là mở cửa, hợp tác chân thành với
các nước, là thành thực, tôn trọng lẫn nhau. “Làm bạn với tất cả mọi nước dân
chủ và không gây thù oán với một ai”.
Hồ Chí Minh cùng Đảng, Nhà nước lãnh đạo hai cuộc
kháng chiến suốt 30 năm, làm thất bại mưu đồ xâm lược, thống trị của những đế
quốc mạnh nhất thời đại, giành thắng lợi với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
(07-5-1954) và đại thắng Mùa Xuân 1975 (30-4-1975) thống nhất đất nước. Tư tưởng
quân sự Hồ Chí Minh tạo sức mạnh trong chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng
vũ trang ba thứ quân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Kiên quyết bảo vệ nền
độc lập dân tộc với chân lý: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào thực
tiễn Việt Nam. Người nhấn mạnh tính tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội và phải nắm
vững đặc điểm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua chiến tranh
lâu dài cần phải tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội, không thể làm giống
như các nước khác; cần phải tìm ra quy luật riêng của cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Hồ Chí Minh quan niệm: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân
giàu nước mạnh”6, “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán
khác, có lịch sử địa lý khác”7. Chủ nghĩa xã hội là mọi người được tự do, ấm
no, hạnh phúc, được học hành, được chữa bệnh, có nhà ở tử tế, trẻ em được nuôi
dưỡng, người già được chăm sóc. Tư tưởng đó của Người được Đảng ta quán triệt
sâu sắc trong đường lối đổi mới từ Đại hội VI (1986) và được hiện thực hóa
trong phát triển đất nước vững chắc, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đạt được
những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đảng và suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã
nêu bật tư tưởng về xây dựng một Đảng chân chính cách mạng - Đảng Cộng sản Việt
Nam - cả về chính trị, tư tưởng, lý luận, tổ chức và đạo đức; thấm nhuần đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Người nhấn mạnh: Đảng ta là đạo đức, là
văn minh. Dân tộc Việt Nam phải là một dân tộc dũng cảm, thông thái, văn minh,
có đạo đức.
Với hệ thống tư tưởng sâu sắc và những đóng góp to lớn
cho cách mạng, sự mẫu mực trong đời sống, năm 1987, Hồ Chí Minh đã được Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) tôn vinh là “Anh hùng
giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất”. Dù cho các thế lực thù địch
có cố tình xuyên tạc như thế nào chăng nữa, thì tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn mãi
mãi soi đường cho Đảng ta và dân tộc Việt Nam; sống mãi trong sự nghiệp đấu
tranh của các dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Cương lĩnh 1991, tháng 6-1991), bổ sung và phát triển (tháng 01-2011), Đảng ta
khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”8. Qua nhiều năm nghiên cứu, Đại hội IX của
Đảng (tháng 4-2001) đã tổng kết và nêu rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam ngày càng khẳng định
giá trị khoa học bền vững và tính hiện thực của tư tưởng bất diệt đó.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét