Home » hoptacdoingoai
Thứ Ba, 12 tháng 6, 2018
Việt Nam sẵn sàng tăng cường hợp tác phát triển kinh tế biển
Nhân dịp thăm
Canada và dự Hội nghị Thượng đỉnh Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu
thế giới (G7) Mở rộng tại Charlevoix, tỉnh Quebec, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã
trả lời phỏng vấn Quỹ châu Á-Thái Bình Dương Canada (APF Canada) về những đóng
góp của Việt Nam tại hội nghị và vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Thủ tướng Chính
phủ Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, thế kỷ 21 là thế kỷ của đại dương bởi biển và đại
dương là không gian sinh tồn và phát triển của các quốc gia ven biển và cả hành
tinh, do đó phát triển kinh tế biển và bảo vệ môi trường biển có vai trò rất
quan trọng đối với sự phát triển bền vững của các quốc gia ven biển, trong đó
có Việt Nam. Việt Nam có tiềm năng rất lớn về phát triển kinh tế biển với đường
bờ biển dài 3.260km, vùng biển rộng khoảng hơn 1 triệu km2 với nhiều nguồn tài
nguyên phong phú có giá trị kinh tế cao như hải sản, dầu khí và các loại khoáng
sản. Việt Nam có hơn 2.770 đảo và nhiều vịnh tuyệt đẹp được công nhận là di sản
thế giới như Vịnh Hạ Long và 125 bãi biển có cảnh quan đẹp, trong đó có 20 bãi
biển đạt tiêu chuẩn quốc tế, có tiềm năng rất lớn để phát triển du lịch biển đảo.
Bên cạnh đó, Việt Nam nằm ở vị trí địa-chiến lược rất quan trọng trên tuyến đường
giao thương quốc tế kết nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Với hơn 90 cảng biển,
trong đó có những cảng biển sâu trung chuyển quốc tế, Việt Nam có tiềm năng rất
lớn về phát triển vận tải biển, dịch vụ trung chuyển và hậu cần. Kinh tế biển
và phát triển hướng ra biển là định hướng chiến lược phát triển của Việt Nam
trong nhiều năm qua với tầm nhìn xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh
về biển. Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng
góp khoảng 55% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và 60% kim ngạch xuất khẩu của đất
nước.
Để thực hiện
tầm nhìn và mục tiêu nói trên, Việt Nam đã và đang triển khai nhiều chính sách,
kế hoạch và biện pháp phát triển kinh tế biển và bảo vệ môi trường biển. Việt
Nam đã và đang hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật và quy hoạch về biển và
hải đảo; triển khai tốt Luật Biển, Luật Tài nguyên, môi trường biển-hải đảo và
các quy định liên quan đến biển; ký và tham gia nhiều công ước, thỏa thuận quốc
tế về biển nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho phát triển kinh tế biển. Thực hiện đồng
bộ các chính sách nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học-công nghệ biển;
hiện đại hóa cơ sở hạ tầng biển phục vụ kinh tế biển như các tuyến đường ven biển,
hệ thống cảng biển… Việt Nam cũng ưu
tiên bảo vệ môi trường, sinh thái biển là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, thường
xuyên và lâu dài; phát triển kinh tế biển đi đôi với bảo vệ môi trường biển là
chủ trương nhất quán trong chiến lược biển của Việt Nam với nguyên tắc “sử dụng
và khai thác” phải đi đôi với “giữ gìn và tái tạo," không đánh đổi môi trường
lấy tăng trưởng kinh tế. Tất cả các dự án phát triển kinh tế biển phải bảo đảm
thực hiện đầy đủ, hiệu quả các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh
hợp tác và hội nhập quốc tế, đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào củng cố
hòa bình, ổn định trên các vùng biển. Việt Nam ủng hộ các nỗ lực của quốc tế nhằm
thiết thực góp phần bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải,
hàng không và bảo vệ môi trường biển. Việt Nam kiên trì giải quyết những khác
biệt và tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là
Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; tôn trọng tiến trình ngoại giao
và pháp lý; tăng cường sự tin cậy lẫn nhau; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử
dụng vũ lực; thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố Về ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC); thúc đẩy sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất
và hiệu quả. Việt Nam sẵn sàng đẩy mạnh hợp tác với tất cả các nước và các đối
tác trong phát triển kinh tế biển trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tuân thủ
luật pháp quốc tế để cùng nhau hướng tới đại dương xanh, hòa bình, ổn định và
cùng phát triển thịnh vượng.
Về những
thông điệp, sáng kiến của Việt Nam tại Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng năm nay,
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, triển khai đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam đang chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng trong nhiều lĩnh vực. Với tinh thần là
bạn và đối tác tin cậy, Việt Nam đã và đang đóng góp tích cực và có trách nhiệm
vào những vấn đề quan tâm chung của quốc tế tại nhiều diễn đàn đa phương quan
trọng như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM… Việc Việt Nam được Canada mời dự Hội
nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng năm 2018 vừa là một bước phát triển mới của quan hệ
Đối tác toàn diện Việt Nam - Canada được thiết lập tháng 11/2017, vừa cho thấy
vai trò, vị thế cũng như những nỗ lực của Việt Nam trong ứng phó biến đổi khí hậu,
phát triển kinh tế biển và bảo vệ môi trường biển được cộng đồng quốc tế ghi nhận.Tại
hội nghị này, Việt Nam đã đóng góp thực chất và có trách nhiệm trong thảo luận
nhiều nội dung quan trọng, nhất là thúc đẩy thực hiện nghiêm túc Thỏa thuận Paris
về chống biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái biển, ngăn ngừa xả rác
thải nhựa ra đại dương. Việt Nam hoan nghênh sáng kiến của Canada và các nước
G7 thúc đẩy hợp tác ngăn ngừa xả rác thải ra đại dương, tăng cường bình đẳng giới
và tạo thuận lợi cho phụ nữ tiếp cận các nguồn lực và các dịch vụ cơ bản trong ứng
phó biến đổi khí hậu. Về phần mình, Việt Nam đã đề xuất cộng đồng quốc tế thảo
luận khả năng tiến tới một thỏa thuận toàn cầu về ngăn ngừa xả rác thải nhựa ra
đại dương tương tự như Thỏa thuận Paris về chống biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó,
Việt Nam cũng đề nghị các nước G7 xem xét thành lập một diễn đàn hợp tác mở rộng
giữa các nước G7 và các quốc gia ven biển về ứng phó biến đổi khí hậu, nước biển
dâng và bảo vệ môi trường sinh thái biển. Các sáng kiến này của Việt Nam đều xuất
phát từ nhu cầu cấp thiết của cộng đồng quốc tế về tăng cường hợp tác thực chất
và hiệu quả trong ứng phó biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường biển, do đó được
nhiều nước tham dự hội nghị hoan nghênh và ghi nhận tích cực. Việt Nam sẵn sàng
tăng cường hợp tác với tất cả các nước và các đối tác triển khai các sáng kiến
nói trên bằng các chương trình, dự án cụ thể và thiết thực vì sự phát triển bền
vững và phồn vinh chung của cả hành tinh chúng ta./.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét