Home » thoisu
Thứ Sáu, 17 tháng 8, 2018
David Fickling : ‘Vành đai và Con đường’ sẽ đẩy Trung Quốc vào vết xe đổ Liên Xô?
Nhà báo người
Mỹ David Fickling mới đây đã có bài viết đăng trên Bloomberg nhận định “Sự sụp
đổ của Liên Xô lặp lại trong Vành đai và Con đường của Trung Quốc”. Ông
Fickling cho rằng việc đầu tư tràn lan không hiệu quả cuối cùng sẽ khiến chế độ
Bắc Kinh có kết cục không tốt đẹp giống Liên Xô.
Điều gì đã
khiến các đế chế sụp đổ? nhà báo David Fickling đặt câu hỏi như vậy và dẫn câu
trả lời phổ biến cho rằng cuối cùng đó chính là do vấn đề đầu tư. Các cường quốc
là những quốc gia khai thác tiềm năng kinh tế của họ tốt nhất để xây dựng sức mạnh
quân sự. Khi họ phát triển vượt ngưỡng, việc chi tiêu tràn lan để duy trì lợi
thế chiến lược sẽ khiến cho nhiều khu vực năng suất hiệu quả hơn trong nền kinh
tế bị thiếu vốn, dẫn tới sự suy thoái là điều không thể tránh khỏi.
Tình huống
nêu trên chính là viễn cảnh đáng lo ngại cho Trung Quốc. Chế độ Bắc Kinh hiện tại
có thể được coi là siêu cường với GDP lớn thứ hai thế giới, tốc độ tăng trưởng
cao trong nhiều thập kỷ, nhưng cũng triển khai các hoạt động quân sự bành trướng
phô trương sức mạnh và đầu tư tài chính tràn lan để gây ảnh hưởng trong khu vực
và toàn cầu bằng sáng kiến “Vành đại và Con đường”.
Kinh tế
Trung Quốc bắt đầu chững lại và năm 2018 sẽ là lần đầu tiên sau 5 thập kỷ, chế
độ Bắc Kinh sẽ phải đối mặt với sự sụt giảm trong lực lượng lao động.
Cũng giống
như Liên Xô vào những năm 1970, Trung Quốc sẽ kết thúc giai đoạn bùng nổ lực lượng
lao động thời gian dài và chế độ này hy vọng vào các khoản đầu tư tràn lan sẽ
giúp giữ tốc độ tăng trưởng cao và củng cố ổn định các vùng biên giới. Thành
công hay thất bại của các dự án trong sáng kiến “Vành đại và Con đường” sẽ đóng
vai trò quyết định liệu chế độ Bắc Kinh có đạt được ước mơ thịnh vượng của mình
hay sẽ lại ngã quỵ trước cùng đối thủ mà Liên Xô đã gặp phải trong thế kỷ XX.
Phát triển
Siberia khiến Liên Xô suy thoái
Theo nhà báo
David Fickling, những gì Liên Xô trải qua vào nửa cuối thế kỷ XX là khá giống với
những gì Trung Quốc đã, đang và sẽ bước đi trong vài thập kỷ qua và thời gian tới.
Vào những
năm 1950, Moscow cũng có được bước tiến thần kỳ về kinh tế kiểu Trung Quốc ngày
nay khiến nhiều quốc gia phương Tây lo sợ rằng họ sẽ sớm bị qua mặt. Vào thời
điểm đó, kinh tế Liên Xô tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ quốc gia lớn nào khác trừ
Nhật Bản.
Có nhiều lý
do khiến tốc độ tăng trưởng của Liên Xô bắt đầu chững lại vào những năm 1970,
trong đó có sự cứng nhắc của nền kinh tế kế hoạch, lực lượng lao động tập trung
vào ngành công nghiệp và một khoản tiền khổng lồ dành cho chi tiêu quân sự thời
kỳ Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, theo nhà báo David Fickling, yếu tố then chốt
khiến năng suất của Liên Xô sụt giảm là do các dự án phát triển Siberia, tương
đồng với sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc ngày nay.
Từ những năm
1960, khu vực Siberia đã hấp thụ khoảng 1/3 trang thiết bị xây dựng hạng nặng của
Liên Xô cho dù vùng này chỉ chiếm một phần nhỏ dân số cả nước. Chế độ Moscow
khi đó đã bơm vốn vào Siberia để phát triển các mỏ khí, mỏ than, nhà máy nhôm
và xây dựng một tuyến đường sắt xuyên Siberia kéo dài hàng trăm cây số nối với
miền bắc.
Hiệu quả sản
xuất giảm trong ngành dầu mỏ, than đá và thép trong những năm 1970 và 1980 đã
kéo theo giảm hiệu suất của toàn bộ nền kinh tế Liên Xô.
Nhà kinh tế
học Robert C. Allen trong một bài luận viết năm 2001 đã nhận định rằng chính “Sự
phát triển về nguồn tài nguyên thiên nhiên Siberia là thùng chứa lớn thu hút
các khoản đầu tư” và khiến các dự án hấp dẫn hơn ở phía tây Ural thiếu vốn và
cuối cùng làm suy yếu năng suất của toàn bộ nền kinh tế Liên Xô. “Nguồn tài
nguyên ‘phong phú’ của Liên Xô đã trở thành một lời nguyền. Phát triển tài
nguyên đã nuốt một lượng lớn vốn đầu tư nhưng đổi lại là tăng trưởng GDP thấp”,
ông Allen viết.
Bỏ Đông, hướng
Tây khiến kinh tế Trung Quốc mất động lực tăng trưởng
Nhà báo
David Fickling nhận định rằng những gì xảy ra tại Trung Quốc hiện nay là khá
tương đồng với Liên Xô trước đây. Moscow khi đó có mối lo ly khai tại vùng viễn
đông, Trung Quốc giờ lo lắng về chủ nghĩa ly khai tại miền tây. Cả hai mối lo
này đều kéo theo những khoản đầu tư cực lớn của chính quyền trung ương vào các
hoạt động quản lý, giảm sát tại các khu vực này.
Khu vực phía
đông Trung Quốc vốn có hiệu suất kinh tế cao trong một thập kỷ qua đã bị giảm
nguồn vốn đầu tư.
Theo các dữ
liệu kinh tế chính thức của nhà nước Trung Quốc, năm 2016, khu vực miền tây
Trung Quốc chiếm tới 19,5% tổng vốn đầu tư của cả nước, trong khi các thành phố
Cấp 1 phát triển năng động và tỉnh Quảng Đông chiếm 15,4% tổng vốn đầu tư. Những
khu vực phát triển kém hơn ở miền trung, miền bắc và miền tây Trung Quốc đã thu
hút phần lớn vốn đầu tư cố định từ năm 2007.
Tiến trình
luân chuyển dòng vốn nêu trên cũng là phù hợp với dấu hiệu về việc Trung Quốc
trong một thập kỷ qua đã không còn giữ được tốc độ tăng trưởng thần kỳ như các
thập niên trước đó. Chi phí nhân công đã tăng nhanh hơn tăng trưởng năng suất kể
từ năm 2008, có nghĩa là nền kinh tế đang phát triển ít hơn và ít cạnh tranh
hơn theo thời gian, theo một báo cáo mới đây của một nhóm nghiên cứu kinh tế độc
lập.
“Vành đai và
Con đường” là đỉnh của tảng băng trôi
Nhà báo
David Fickling cho rằng các dự án “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc từ
Châu Á, Trung Đông, Châu Phi đều như đỉnh của tảng băng trôi.
Ông Fickling
nhận định các khoản đầu tư khổng lồ của Trung Quốc vào các dự án cơ sở hạ tầng ở
nhiều nước gây ra vấn đề cho cả nhà đầu tư và bên vay nợ. Trong khi các ‘con nợ’
có nguy cơ mất chủ quyền, thì những dự án không hiệu quả cũng sẽ khiến ‘chủ nợ’
Trung Quốc gặp rủi ro trong việc giữ tăng trưởng kinh tế, điều mấu chốt để duy
trì chế độ độc đảng cộng sản tại đất nước đông dân nhất thế giới.
Theo ông
Fickling, các khoản tiền đầu tư khổng lồ của Trung Quốc vào các dự án như cảng
Hambantota, Sri Lanka (1,6 tỷ USD), cảng Kyaukpyu, Myanmar (9,6 tỷ USD) và đường
ống dẫn khí từ Côn Minh tới Kyaukpyu (2,5 tỷ USD) v.v… đều đang có nguy cơ
không sinh lời.
Trung Quốc
tính toán rằng họ sẽ xây dựng đường sắt, đường ống dẫn khí qua hành lang phía
tây, qua Trung Á nối tới Ấn Độ Dương để giao thương với phương Tây, giúp họ
không bị phụ thuộc hoàn toàn vào tuyến hàng hải truyền thống mà Trung Quốc kết
nối với Tây Âu và Trung Đông qua eo biển Singapore và Malacca.
Nhưng nhà
báo Fickling đánh giá rằng kế hoạch đó của chế độ Trung Quốc đã xuất phát từ việc
hiểu sai cả lịch sử và kinh tế học cơ bản về giao thương đông-tây. Phần lớn
thương mại đông-tây luôn phụ thuộc nhiều vào vận tải đường biển qua Đông Nam Á,
Ấn Độ và Bán đảo Ả Rập hơn là ‘Con đường Tơ lụa’ trên đất liền băng qua thảo
nguyên Âu-Á.
Các đường ống
dẫn khí nhìn chung phải cần sử dụng ít nhất 50% công suất để hòa vốn. Nhưng đường
ống dẫn khí Kyaukpyu (Trung Quốc – Myanmar) hiếm khi chạy tải 1/3 năng lực kể từ
khi khai trương vào năm 2013.
Một nhà máy
lọc dầu công suất 260.000 thùng/ngày được xây tại Côn Minh, Trung Quốc có quy
mô bằng với nhà máy lọc dầu lớn nhất Anh Quốc sẽ rơi vào tình cảnh hoạt động
không hết công suất nếu lượng dầu khí chuyển qua đường ống Kyaukpyu không tăng
lên.
Trong khi
đó, tuyến đường sắt kết nối Châu Âu với một thành phố tại tỉnh Chiết Giang, gần
Thượng Hải, 4 tháng đầu năm 2018 này giá trị vận chuyển chỉ đạt 330 triệu USD,
theo số liệu của Công ty Vận tải Đường sắt Trung Quốc. Giá trị vận chuyển này bằng
khoảng 1/3 số hàng hóa trên duy nhất một chiếc tàu biển lớn. Hiện nay, có hàng
trăm tàu biển cỡ nhỏ hơn kết nối đông-tây qua eo biển Singapore và Malacca hàng
ngày. Một trong bốn cảng biển lớn nhất Trung Quốc mỗi ba giờ đồng hồ sẽ tiếp nhận
số hàng hóa bằng giá trị vận tải của tuyến đường sắt Chiết Giang – Châu Âu
trong 4 tháng.
Việc đầu tư
vào “Con đương Tơ lụa mới” và các dự án phía tây khiến Trung Quốc rời xa động lực
tăng trưởng chính của họ trong nửa thế kỷ qua. “Đó là đang gieo hạt giống của sự
suy tàn”, nhà báo David Fickling kết luận.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét