Home » thoisu
Thứ Năm, 11 tháng 4, 2019
Dựng “phên giậu” nơi đầu sóng, ngọn gió
I. Biển, đảo Tây Nam Bộ - tiềm năng và lợi thế
Vùng biển Tây Nam Bộ có diện tích khoảng hơn 300.000km2, ranh giới tiếp giáp với các nước: Cam-pu-chia, Thái Lan, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a; với gần 200 đảo. Một số đảo lớn, như: Phú Quốc, Hòn Rái, Hòn Tre, Thổ Chu, Nam Du, Hòn Chuối, Hòn Khoai; trong đó, đảo Phú Quốc rộng 589,23km², xấp xỉ diện tích quốc đảo Xin-ga-po. Một số đảo nằm khá gần với đường hàng hải quốc tế thông ra vịnh Thái Lan, nhiều vị trí rất thuận lợi để xây dựng cảng biển, kết nối với các nước trong khu vực và quốc tế, tạo thế tiến ra biển lớn. Biển, đảo Tây Nam Bộ là căn cứ tiền tiêu vô cùng quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, đồng thời là cửa ngõ của Việt Nam hội nhập với thế giới.
Tây Nam Bộ có bờ biển dài 743km, chủ yếu là dạng bồi tụ từ nhiều cửa sông lớn, tạo nên các bãi phù sa màu mỡ; môi trường thuận lợi phát triển rừng ngập mặn và nuôi trồng thủy hải sản. Hệ sinh thái vùng biển Tây Nam Bộ rất đặc thù, như: hệ sinh thái san hô, cỏ biển và vùng triều. Nguồn lợi thủy hải sản đa dạng về giống loài, giàu về trữ lượng. Đây là một trong những ngư trường trọng điểm của cả nước, có nhiều loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao, trữ lượng khai thác hằng năm có thể trên 300.000 tấn. Trong những năm gần đây, ngư dân chú trọng phát triển khai thác, đánh bắt xa bờ, đẩy mạnh nuôi trồng, chế biến thủy hải sản; giá trị sản phẩm tăng từ 7% - 15% mỗi năm, có những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nổi tiếng, như: tôm đông lạnh, cá basa, nước mắm Phú Quốc, v.v.
Với khí hậu ôn hòa quanh năm, có nhiều bãi biển đẹp, nước trong xanh, nhiều đảo còn lưu giữ được vẻ hoang sơ, rừng nguyên sinh chiếm 75% diện tích đảo, với tổng diện tích khoảng 47.000 ha. Nơi đây có rừng ngập mặn Mũi Cà Mau, U Minh Hạ, được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới và Vườn quốc gia Phú Quốc. Rừng ở vùng hải đảo có vai trò quan trọng trong việc giữ nguồn nước ngọt cho đảo, bảo vệ môi trường sinh thái, có giá trị lớn về mặt nghiên cứu, bảo toàn gen động - thực vật tự nhiên, phát triển du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, v.v. Bên cạnh đó, hệ thống quần đảo và đảo trên biển cùng các khu rừng ven biển rất thuận lợi để xây dựng căn cứ, thế trận quân sự - an ninh để bảo vệ vững chắc chủ quyền trên một hướng chiến lược của Tổ quốc.
Vùng biển, đảo Tây Nam Bộ không chỉ có phong cảnh đẹp, người dân chất phác, thân thiện, hiếu khách mà còn chứa đựng nhiều di tích, di sản, những trầm tích lịch sử - văn hóa độc đáo. Các di sản thuộc về tín ngưỡng của cư dân biển, như: Lăng Ông và lễ hội Lăng Ông ở Vàm Láng (Tiền Giang), Lăng Ông - Miếu Bà ở thị trấn Trần Đề (Sóc Trăng), Quán Âm Phật Đài ở Nhà Mát (Bạc Liêu), Lăng Ông Nam Hải ở Rạch Gốc (Cà Mau),… với các lễ hội và các sinh hoạt tín ngưỡng xung quanh các di sản này. Nơi đây còn có di tích Đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển ở các xã Thạnh Phong (Bến Tre), Trường Long Hòa (Trà Vinh) và Rạch Gốc (Cà Mau). Có thể khẳng định rằng, phát huy tốt những giá trị của tự nhiên, con người, văn hóa - lịch sử sẽ biến vùng biển, đảo Tây Nam Bộ thành những khu du lịch biển có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Điều đó không những góp phần phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là động lực tinh thần to lớn để người dân nơi đây vươn lên trong lao động sản xuất, nâng cao ý thức bảo vệ biển, đảo quê hương.
Tây Nam Bộ cũng là vùng biển đảo giàu tài nguyên thiên nhiên, nhất là dầu khí. Bể trầm tích dầu khí Mã Lai - Thổ Chu nằm ngoài khơi khu vực biển Cà Mau - Hà Tiên, diện tích khoảng 80.000km2. Đã phát hiện nhiều mỏ dầu khí, như: Kim Long, Ác Quỷ, Cá Voi, Sông Đốc - Năm Căn,... trữ lượng khí đốt khoảng 138,2 tỷ m3 (tương đương với 200 - 500 triệu tấn dầu quy đổi), chiếm 35% trữ lượng của cả nước. Hiện nay, mỗi năm ngành dầu khí Việt Nam đã khai thác hơn 2 tỷ m3 khí. Được thiên nhiên ưu đãi, vùng biển, đảo Tây Nam Bộ có nguồn năng lượng gió, mặt trời dồi dào, lại nằm trên đường hàng hải giao thương quốc tế, nhiều vị trí có thể xây dựng cảng biển hiện đại. Những điều kiện đó, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông, vận tải biển, cung cấp dịch vụ logistics, xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị ven biển, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên vùng biển, đảo giàu tiềm năng này.
Kết quả bước đầu quan trọng
Những năm qua, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các địa phương vùng biển, đảo Tây Nam Bộ đã nhận thức đúng đắn về quan điểm phát triển bền vững kinh tế, gắn với tăng cường quốc phòng và an ninh biển, đảo. Từ đó, đã nỗ lực phấn đấu thực hiện và đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Trước hết, cấp ủy, chính quyền các địa phương tập trung vào việc bố trí lại dân cư trên các vùng ven biển, đảo. Các địa phương đã có nhiều giải pháp, chính sách đặc thù theo các chương trình kết hợp kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng và an ninh, khuyến khích nhân dân ra các vùng ven biển, đảo sinh sống. Trong đó, chú trọng bảo đảm các điều kiện sinh hoạt thiết yếu và việc làm ổn định bền vững cho cư dân. Nếu trước năm 1980, dân số trên các đảo Tây Nam Bộ khoảng 8.000 người, thì năm 2018 đã tăng trên 200.000 người. Đến nay, trong số gần 200 đảo, đã có 46 đảo có dân cư sinh sống. Đặc biệt, đảo Phú Quốc đã và đang được đầu tư xây dựng với mục tiêu phát triển trở thành đô thị hiện đại - trung tâm du lịch, hội nghị quốc tế tầm cỡ khu vực và quốc tế. Những thay đổi đó, đã tạo điều kiện để đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội; bố trí triển khai lực lượng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc.
Cùng với phân bố dân cư, các địa phương tập trung đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng. Bằng nhiều nguồn vốn, các địa phương đã đầu tư hàng trăm nghìn tỷ đồng vào xây dựng kết cấu hạ tầng. Riêng đảo Phú Quốc đã được đầu tư gần 30 nghìn tỷ đồng. Đến nay, vùng biển, đảo Tây Nam Bộ đã xây dựng, nâng cấp và mở rộng hàng loạt các cảng biển, cảng cá, như: nâng cấp Cảng cá An Thới trở thành Cảng nước sâu quốc tế; xây dựng mới cảng cá Thổ Chu, Nam Du, Hòn Ngang, v.v. Bên cạnh đó, các địa phương còn quan tâm đầu tư xây dựng các công trình ven biển, hệ thống đê, kè ngăn mặn, lấn biển, hình thành những khu dân cư, đô thị mới, khu công nghiệp kinh tế biển. Thời gian qua, Sân bay Quốc tế Phú Quốc được đầu tư bước đầu, tổng vốn hơn 16 nghìn tỷ đồng, với thiết kế, điều hành hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế được đưa vào sử dụng, tạo bước đột phá để phát triển kinh tế - xã hội Phú Quốc và kết nối toàn Vùng. Hệ thống cung cấp điện, cơ sở hạ tầng thông tin - truyền thông cũng được đầu tư phát triển đồng bộ. Đến nay, hầu hết các đảo có dân sinh sống trong vùng biển Tây Nam Bộ đều được phủ sóng di động và được cung cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông, internet, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, phòng, chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn; bảo đảm quốc phòng và an ninh, tăng cường khả năng phòng thủ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Với tiềm năng, lợi thế của mình, các địa phương đã đột phá phát triển bền vững các ngành kinh tế biển mũi nhọn, như: nuôi trồng và khai thác thủy, hải sản, dịch vụ biển, khai thác dầu khí, tài nguyên khoáng sản biển và năng lượng tái tạo, v.v. Trong đó, phát triển toàn diện ngành khai thác, chế biến hải sản, xây dựng thành tiểu vùng kinh tế hải sản trọng điểm của cả nước; đẩy mạnh phát triển nghề đánh bắt xa bờ, nuôi trồng thủy hải sản tập trung theo quy trình hiện đại. Đồng thời, tích cực đổi mới, áp dụng quy trình, phương pháp tiên tiến trong bảo quản, chế biến thủy hải sản, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng cho sản phẩm; kết hợp chặt chẽ giữa khai thác với phát triển mạng lưới cơ sở chế biến và hậu cần phục vụ nghề cá trên một số đảo quan trọng, như: Rạch Giá, Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du, Năm Căn, Gành Hào, Hòn Khoai,… góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng biển đảo Tây Nam Bộ nhiều năm liền đạt trên 10%/năm. Cùng với đó, hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư và từng bước hoàn thiện; văn hóa, xã hội có tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện; chính sách an sinh xã hội được quan tâm đúng mức. Với kết quả bước đầu, đảm bảo cho vùng biển, đảo Tây Nam Bộ phát triển bền vững, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa, bảo vệ môi trường và tăng cường quốc phòng - an ninh.
Những khó khăn, thách thức
Tuy đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, nhưng tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên vùng biển, đảo Tây Nam Bộ hiệu quả chưa cao, thiếu bền vững; công nghệ và cơ sở vật chất, kỹ thuật ngành khai thác thủy, hải sản còn lạc hậu, thiếu đồng bộ. Ngư dân khai thác thủy hải sản theo kiểu tận thu, hủy diệt, không quan tâm đến bảo vệ hệ sinh thái, môi trường biển. Bên cạnh đó, công tác quản lý bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ ngư trường của các cơ quan chức năng còn hạn chế. Một số ngư trường có dấu hiệu cạn kiệt, ngư dân không muốn ra khơi hoặc phải đưa tàu đi khai thác ở vùng biển khác, vi phạm Luật Biển Việt Nam, Luật Thủy sản, Quy định của Ủy ban châu Âu về chống đánh bắt cá bất hợp pháp mà chúng ta đã thỏa thuận. Trong khai thác tài nguyên biển còn nghiêng về ưu tiên khai thác những tài nguyên ở dạng vật chất, các tài nguyên phi vật chất ít được chú trọng, như: không gian biển, ven biển và đảo; sự đa dạng của hệ sinh thái; giá trị văn hóa - lịch sử biển, đảo. Ở các địa phương, việc quy hoạch tổng thể cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế biển thiếu đồng bộ, chưa có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ trong vùng hay trong từng lĩnh vực, ngành, nghề, dẫn đến phân tán, thiếu tập trung nguồn lực, thậm chí còn xung đột lợi ích, v.v.
Để vùng biển, đảo Tây Nam Bộ khẳng định được vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các cấp, ngành, lực lượng phải bằng các biện pháp toàn diện, đồng bộ để vừa khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế, vừa khắc phục khó khăn, thách thức để nơi đây thực sự là “phên giậu” vững chắc của Tổ quốc.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét