Home » biendao
Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2019
Thấy gì xung quanh lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm trên Biển Đông của TQ
Từ năm 1999, hàng năm Bộ Ngông nghiệp Trung Quốc đều đưa ra lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông. Năm 2018, đã ban hành lệnh cấm đánh bắt cá dài nhất so với các năm trước đây, thời gian bắt đầu từ 12h ngày 01/5 đến 12h ngày 16/8/2018, với phạm vi trải dài từ 12 độ vĩ bắc đến khu vực biển giao nhau giữa tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Quảng Đông, bao gồm cả khu vực vịnh Bắc Bộ và bãi cạn Scarborough. Lệnh cấm trên cũng được áp dụng ở vùng biển Bột Hải, Hoàng Hải và Hoa Đông. Khi ban hành lệnh cấm trên, Trung Quốc tuyên bố sẽ tăng cường sử dụng tàu chấp pháp để “giám sát, tuần tra, bắt giữ và xử phạt các hành vi vi phạm”. Lý giải về lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm trên, một học giả của Viện Nghiên cứu biển Nam Trung Hoa, thuộc Đại học Hạ Môn của Trung Quốc cho rằng là “tốt cho tính bền vững của các nguồn lực hải sản ở trên Biển Đông”. Tuy nhiên, xem xét phạm vi của lệnh này, cũng như các hành động thực tế mà Trung Quốc đã thực hiện ở Biển Đông thời gian qua cho thấy, lệnh cấm trên không đơn thuần như học giả Trung Quốc nói, mà nó là chuỗi hành động có hệ thống để Trung Quốc hiện thực hóa chủ quyền theo yêu sách “đường chín đoạn” phi lý trên Biển Đông.
Sự thực là, với việc ban hành lệnh trên, Trung Quốc hy vọng sẽ giải quyết được “cơn khát” về thủy, hải sản đang ngày càng gia tăng của nước này. Theo đánh giá của ông Sébastien Colin - nhà địa lý học, giảng viên Viện Quốc gia ngôn ngữ và Văn minh phương Đông (Inalco) của Pháp, Trung Quốc hiện nay là nước đứng đầu thế giới về nuôi trồng (chiếm 61%) và đánh bắt (khoảng 27%) thủy, hải sản. Ngay từ những năm 1980, nhu cầu tiêu thụ thủy, hải sản của Trung Quốc đã tăng mạnh và nó sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới, bởi mức tiêu thụ loại thực phẩm trên mỗi năm tính theo đầu người tại nước này không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, Bắc Kinh không những muốn bảo đảm nguồn cung cho thị trường nội địa 1,4 tỷ dân, mà còn muốn đẩy mạnh xuất khẩu thủy, hải sản ra thị trường thế giới, phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Do đó những năm qua, Trung Quốc phát triển mạnh mẽ nghề nuôi trồng thủy, hải sản để cung cấp cho thị trường nội địa, đồng thời tìm cách giảm bớt đội ngư thuyền để bảo tồn các nguồn thủy, hải sản gần bờ. Nhưng trớ trêu thay, mô hình đó giờ đang tỏ ra hụt hơi, để lại nhiều hệ lụy, khó khăn cho Trung Quốc. Các nguồn thủy, hải sản ven bờ đang dần suy kiệt, môi trường đang ngày càng ô nhiễm. Các loài cá ven bờ là những loài cá nhỏ, chỉ có thể dùng để làm thức ăn cho cá nuôi. Trong bối cảnh như vậy, Trung Quốc buộc phải mở rộng phạm vi đánh bắt, đi đến những vùng biển xa hơn ở Biển Đông, hay Nam Thái Bình Dương. Nhưng muốn vươn ra các vùng biển này, Trung Quốc không thể tự do thực hiện, mà phải có cơ sở pháp lý. Để giải quyết vấn đề này, Trung Quốc lựa chọn cách làm dù không có cơ sở rõ ràng, giống như việc họ tự vạch ra “đường chín khúc ” trên Biển Đông. Đó là ban hành lệnh cấm đánh bắt cá trên một phạm vi rộng lớn, vượt ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc, đồng thời lập luận rằng, lệnh đánh bắt cá mà họ ban hành “về cơ bản, hướng vào việc kiểm soát chặt chẽ ngư dân Trung Quốc, không nhằm chống lại nước nào” và “bản thân lệnh cấm này là tốt cho tính bền vững của các nguồn lực thủy, hải sản ở Biển Đông. Vì thế, chính quyền các nước nên ủng hộ lệnh này, thay vì phản đối nó”. Trung Quốc chọn thời điểm ban hành lệnh trên vào mùa sinh sản của các loài thủy, hải sản nhằm che đậy cho ý đồ “mở rộng quyền làm chủ Biển Đông” và cũng để làm dịu bớt sự phản đối của các nước, hướng lái dư luận các nước hiểu rằng, việc làm này của Trung Quốc là hoàn toàn “hợp lý”, “Trung Quốc đang bảo vệ nguồn lợi thủy, hải sản không chỉ cho mình, mà còn cho các nước khác”.
Mặc dù lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của một số nước trong khu vực, bị các nước phản đối và vô hiệu hóa, nhưng Trung Quốc không dừng lại, năm nào cũng vẫn ngang nhiên đưa ra thứ lệnh cấm phi lý này. Nguyên do là bởi:
Trước hết, trong giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, không thể không nói đến vấn đề pháp lý, thậm chí nó còn là vấn đề tối quan trọng. Do đó, ban hành lệnh cấm đánh bắt cá là một giải pháp pháp lý nhằm thể hiện tư cách “chủ nhân ông” của Trung Quốc. Mặc dù nó có vẻ phi lý, ít được thừa nhận, nhưng “nói mãi cũng có người phải nghe”, cứ ban hành đều đều hàng năm thì đó cũng là một cuộc đấu tranh “giành lấy sự công nhận trên thực tế” đối với cộng đồng quốc tế. Đây là sự tính toán của Trung Quốc nhằm phối hợp với các biện pháp khác trong thực hiện tham vọng “độc quyền kiểm soát Biển Đông”. Chả thế mà nhiều học giả nước ngoài đã xem hành động ban hành lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc chính là một mũi tiến công cho “cuộc chiến pháp lý”. Một loại “chiến tranh mềm” để thực hiện đòi hỏi về yêu sách chủ quyền.
Tiếp theo, lâu nay Trung Quốc đã cố tình giải thích và áp dụng sai quy định của luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982) bằng cách dùng quy định về hệ thống đường cơ sở của các quốc gia quần đảo để áp dụng cho các quần đảo xa bờ không phải là quốc gia quần đảo. Từ đó, Trung Quốc luôn khẳng định họ có các vùng biển và thềm lục địa liền kề với 4 quần đảo (họ gọi là Tứ Sa) ở giữa Biển Đông. Sau khi chiếm đóng các thực thể địa lý không phải là đảo, họ bắt tay đầu tư cải tạo chúng thành các đảo nhân tạo cực lớn. Việc đưa người ra sống trên các thực thể đó, tiến hành xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế, dân sự, quân sự, thành lập các đơn vị hành chính (thành phố Tam Sa…), công bố các quyết định hành chính trong đó có việc ban hành lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm là những việc làm mà Trung Quốc đang muốn chứng minh rằng các thực thể địa lý đó hoàn toàn “thích hợp cho con người ở và có đời sống kinh tế riêng”. Vì vậy, chúng có hiệu lực trong việc mở rộng phạm vi các vùng biển và thềm lục địa tối thiểu là 200 hải lý. Họ nhằm tới mục tiêu khẳng định rằng yêu sách “đường chín khúc” hoàn toàn có cơ sở pháp lý, thậm chí rất phù hợp với quy định của UNCLOS 1982. Chính vì thế, năm 1996, Trung Quốc chính thức công bố đường cơ sở ở quần đảo Hoàng Sa và công khai xác nhận sẽ làm điều tương tự cho các quần đảo khác trong Biển Đông vào lúc thích hợp, trong đó có quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Nam Sa. Vì vậy, công bố lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm là biện pháp và bước đi thích hợp nhất để thực hiện ý đồ trên.
Lại nói, Trung Quốc cho rằng, việc ban hành lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm là nhằm “bảo đảm nguồn tài nguyên bền vững, lâu dài ở vùng biển của Trung Quốc” và rằng, “điều này không chỉ bảo vệ lợi ích cho người dân Trung Quốc, mà còn bảo vệ lợi ích của người dân các nước khác”. Tuy nhiên, xem xét lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm của Trung Quốc, nhất là lệnh ban hành năm 2018 sẽ thấy, phạm vi bao trùm trọn vẹn phần biển phía Bắc của “đường chín khúc”, còn phần phía Nam tính từ 12 độ vĩ Bắc trở lên, lệnh này bao trùm lên vùng đánh cá chung với Việt Nam ở vịnh Bắc Bộ, trùm cả lên vùng biển tranh chấp với Philippinnes. Mặc dù, Trung Quốc đã ký DOC với các nước ASEAN, ký các thỏa thuận hợp tác song phương với một số nước trong khu vực có tranh chấp ở Biển Đông, trong đó có Việt Nam, Philippines, nhưng lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc lại vi phạm chủ quyền của hai nước trên, vi phạm nguyên tắc, chuẩn mực luật pháp quốc tế. Trên thực tế, sau khi Trung Quốc ban hành lệnh cấm đánh bắt cá, tàu thuyền của ngư dân một số nước mặc dù hoạt động bình thường trong vùng biển truyền thống của họ, nhưng vẫn bị phía Trung Quốc cho là vi phạm lệnh cấm này. Và họ đã nhiều lần sử dụng các tàu đánh cá cỡ lớn, có nhiều chức năng, thực hiện nhiều hành động (va, húc…), kể cả sử dụng vũ lực, gây thiệt hại lớn không chỉ về tài sản mà còn cả tính mạng của ngư dân một số nước. Trong một số trường hợp, ngư dân các nước đã không dám ra khơi bám biển vào thời gian lệnh cấm trên được thi hành. Thậm chí, lệnh cấm này còn gây trở ngại cho việc tự do hàng hải ở Biển Đông, khiến cho việc đi lại của tàu thuyền các nước qua khu vực này gặp khó khăn, không loại trừ sự xáo trộn, căng thẳng có thể xảy ra khi Trung Quốc đưa tàu ra xua đuổi tàu thuyền các nước đi qua vùng cấm theo lệnh này. Theo nhiều chuyên gia quốc tế, đây là hành động không phù hợp với thoả thuận quan trọng đã đạt được giữa lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc với một số nước về kiểm soát tốt bất đồng trên biển. Lệnh này cũng không có lợi cho việc duy trì môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác ở Biển Đông và xu thế phát triển tốt đẹp của quan hệ giữa một số nước trong khu vực với Trung Quốc, cũng như nỗ lực của các nước trong việc đàm phán, xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hiện nay.
Từ phạm vi của lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm cho thấy, sau một số năm triển khai, giờ đây Trung Quốc đang lấn tới, vươn xa việc đánh bắt cá xuống vùng biển phía Nam Biển Đông. Nhiều chuyên gia, học giả nhận định, theo thời gian, với cách làm này, dần dần Trung Quốc sẽ mở rộng vùng đánh bắt cá đi sâu hơn xuống phía Nam chứ không phải dừng lại ở 12 độ vĩ Bắc, vì cái mà Trung Quốc cần là hiện thực hóa chủ quyền theo yêu sách “đường chín khúc”, muốn vậy cần phải có lực lượng để thực hiện nhằm tránh xảy ra xung đột quân sự, tránh gây căng thẳng. Lực lượng này không ai tốt hơn chính là ngư dân và trong trường hợp nếu có xảy ra xung đột thì chỉ là xung đột giữa lực lượng dân sự với dân sự. Khi xung đột dân sự không giải quyết được, lúc đó họ mới tính tới việc sử dụng lực lượng quân sự. Tuy nhiên, việc sử dụng lực lượng quân sự còn tùy thuộc thời thế, tương quan lực lượng và nhiều yếu tố khác nữa. Nếu luật pháp quốc tế không đủ mạnh, các nước không có biện pháp ngăn chặn hiệu quả, có sự “làm ngơ” trước lệnh cấm này, thì theo thời gian, Trung Quốc dần dần sẽ lấn tới theo cách “được đằng chân, lân đằng đầu”, “mềm nắn, rắn buông”. Theo đó, Trung Quốc có thể áp dụng cách làm là thi hành lệnh cấm đánh bắt cá tại một số bãi đá chìm ở Trường Sa như vừa qua xuống các bãi đá ở phía Nam Biển Đông. Lúc đó, với các thực thể Trung Quốc đang có được, lệnh cấm đánh bắt cá sẽ không còn giới hạn ở 12 độ vĩ Bắc nữa, mà có thể xuống 11, 10 độ vĩ Bắc hoặc sâu hơn nữa và điểm cuối cùng là chạm đúng vào “đường chín khúc” ở phía Nam. Đó cũng là lúc Trung Quốc hoàn thành “cơ sở pháp lý” ra toàn bộ “đường chín khúc”, đúng theo tham vọng của họ.
Nhìn vào thực trạng Trung Quốc đầu tư xây dựng tại các thực thể chiếm đóng trái phép ở Trường Sa trong thời gian qua, nhìn vào yêu cầu thực hiện chiến lược “Hướng Nam”, tiến tới “giấc mộng Trung Hoa”, đặc biệt là nhìn vào dư luận trong và ngoài khu vực đang đấu tranh đòi loại bỏ “đường chín khúc” bởi tính chất bất hợp pháp, phi lý, phản khoa học của nó, có thể dự báo rằng: Trung Quốc sẽ tính đến việc sớm công bố hệ thống đường cơ sở ở Trường Sa theo cách mà họ thực hiện ở Hoàng Sa năm 1996 và lại có thể coi đây là một mũi tiến công trong “cuộc chiến pháp lý” mà nước này đã và đang phát động. Lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm chính là một biện pháp, bước đi trong mũi tiến công đó của Trung Quốc.
Từ những ý đồ thâm hiểm đằng sau lệnh đánh bắt cá hàng năm của Trung Quốc, nhiều học giả quốc tế gọi đây là “trò chơi hai mặt” của Trung Quốc trên Biển Đông.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét