Home » biendao
Thứ Ba, 23 tháng 7, 2019
Chớ nên đổ lỗi cho bên ngoài khi tình hình Biển Đông xấu đi (phần 1)
(BDN) - Theo đánh giá của dư luận quốc tế và khu vực, tình hình an ninh ở Biển Đông thời gian qua, hiện nay cũng như trong tương lai “nóng” hay “lạnh”, căng thẳng hay hòa dịu, phần lớn và chủ yếu là xuất phát từ yếu tố Trung Quốc, từ việc nước này có hay không tiến hành các hành động nhằm hiện thực hóa yêu sách “đường chín đoạn” trên Biển Đông. Vì yêu sách này bị cả cộng đồng quốc tế phản ứng và các nước có liên quan trong khu vực thì dị ứng. Tuy nhiên, hồi tháng 02/2019 vừa qua, một tạp chí nghiên cứu về thế giới của Trung Quốc đã đăng tải bài viết với nhận định cho rằng, tình hình Biển Đông thời gian tới sẽ có diễn biến theo xu hướng xấu đi và cái mà theo bài viết cho là nguyên nhân có thể làm cho tình hình Biển Đông xấu đi chủ yếu là xuất phát từ các yếu tố bên ngoài chứ không phải là do Trung Quốc.
Trước hết, đánh giá về tình hình Biển Đông, bài viết cho rằng, khu vực này hiện nay đang thể hiện xu thế phát triển hai trục. Trục thứ nhất là sự hợp tác trên biển giữa Trung Quốc và các nước ASEAN, đặc biệt là giữa các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Sự hợp tác này được thúc đẩy liên tục, hợp tác an ninh có đột phá mới, tiến trình đàm phán COC đã có thời gian biểu và lộ trình cụ thể. Trục thứ hai là cạnh tranh địa - chính trị ở Biển Đông với biểu hiện nổi bật là cuộc đọ sức quân sự giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng gay gắt. Hai trục chính này cùng thúc đẩy diễn biến phát triển của tình hình Biển Đông trong năm 2018 và thời gian tiếp theo, với nhiều đặc điểm nổi bật, trong đó có những đặc điểm mà theo bài viết là nó sẽ làm cho tình hình Biển Đông có những chuyển biến xấu trong thời gian tới. Cụ thể như sau:
Một là, cuộc đọ sức quân sự giữa Trung Quốc và Mỹ ở Biển Đông tiếp tục tác động và chi phối sự phát triển của tình hình khu vực. Đối với đặc điểm này, bài viết cho rằng, Mỹ sau khi xác định Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến lược”, đã gia tăng tần suất, cường độ và phạm vi của các hoạt động bảo đảm tự do hàng hải trên Biển Đông. Đánh giá này xem ra có phần phù hợp với những gì mà Mỹ đã và đang tiến hành ở Biển Đông. Thế nhưng, điều đáng quan tâm là bài viết mới chỉ nói rằng do xác định Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến lược” nên Oasinhton mới can dự mạnh hơn vào Biển Đông, song lại lờ đi một yếu tố vô cùng quan trọng và cũng chính là nguyên nhân chủ yếu khiến cho tình hình Biển Đông thường xuyên bất ổn: Đó là sự xuất hiện liên tiếp các hành động nguy hiểm đến từ phía Trung Quốc, đe dọa đến môi trường hòa bình và sự ổn định tại Biển Đông trong thời gian qua, uy hiếp đến lợi ích của các nước, trong đó có cả lợi ích của Mỹ ở khu vực này. Đây là một thực tế được rất nhiều nhà nghiên cứu, chính trị, học giả nổi tiếng thế giới thừa nhận.
Tiếp đó, bài viết cho biết, năm 2018, tàu chiến của Mỹ lần lượt có 5 lần “tùy tiện” tiến vào phạm vi vùng 12 hải lý “thuộc các đảo, đá của Trung Quốc ở Nam Sa (Trường Sa), như Mỹ Tế Tiêu (đá Vành Khăn), Nam Huân Tiêu (đá Ga Ven)… phạm vi hoạt động bao phủ quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Nam Sa và đảo Hoàng Nham (Scarborough) thuộc quần đảo Trung Sa (Macclesfield)...”. Với cách diễn đạt này, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam được Trung Quốc nghiễm nhiên khẳng định là chủ quyền của họ, cứ như không có ai phản bác, nên họ phải có các hành động để “bảo vệ”. Như vậy, có phải do yếu tố bên ngoài làm cho tình hình Biển Đông xấu đi hay chính là do Trung Quốc vẫn khư khư lập trường muốn ôm tất cả Biển Đông vào cái gọi là “chủ quyền không thế chối cãi” của mình mà khiến người Mỹ phải cho tàu chiến đi qua để cảnh báo Trung Quốc rằng “chớ nên nhận cái thứ không phải của mình, chẳng tốt đẹp gì đâu”.
Hai là, theo bài viết, ngoài các toan tính chiến lược và nhu cầu lợi ích bản thân, một số đồng minh của Mỹ như Nhật Bản, Australia, Anh… đã bị Mỹ hoặc là đe dọa, hoặc là dụ dỗ, mua chuộc, nên coi sự cân bằng quân sự là biện pháp chủ yếu để can dự vào vấn đề Biển Đông, nhất là gia tăng quan hệ quân sự với một số nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc, làm cho tình hình tranh chấp ở Biển Đông càng thêm phức tạp. Bài viết đã liệt kê một số hoạt động của lực lượng hải quân các nước như Nhật Bản, Australia, Anh tại Biển Đông, trong đó các chuyến thăm Việt Nam của tàu hải quân các nước nói trên cũng được đề cập khá cụ thể. Các nước trên là đồng minh của Mỹ nên việc tàu chiến của họ đến thăm Việt Nam được bài viết nêu ra có thể ngầm được hiểu là họ đang cố ý chỉ trích Việt Nam “bắt tay” với Mỹ và các đồng minh của Mỹ để chống lại Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Đây rõ ràng là quan điểm thiếu thiện chí, cách nhìn phiến diện, không phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, gây thêm rắc rối cho quan hệ giữa hai nước Việt - Trung. Bởi trên thực tế, thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ với các nước, đến nay, Việt Nam đã ký 3 hiệp định quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nga (2001), Ấn Độ (2007) và Trung Quốc (2008); ký hiệp định quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng với Nhật Bản (2014), đối tác chiến lược với Australia (2018), đối tác toàn diện với Mỹ (2013). Với việc ký kết những hiệp định với các nước nói trên, Việt Nam không có mong muốn nào khác là hướng đến bảo đảm môi trường hòa bình, thịnh vượng cho đất nước, khu vực và thế giới. Việt Nam luôn khẳng định không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào của bên này để chống bên kia; không cho phép nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; giải quyết mọi bất đồng tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; phù hợp với hiến pháp và pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. Trên tinh thần đó, việc tàu quân sự của một số nước nói trên ghé thăm Việt Nam là chuyện bình thường trong hoạt động đối ngoại quốc phòng của Việt Nam, Việt Nam không chịu bất kỳ sức ép hay sự mua chuộc, lôi kéo của bất kỳ nước nào, do đó không thể xem đây là nhân tố có thể làm cho Biển Đông bất ổn được. (còn nữa)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét