Home » thoisu
Thứ Tư, 25 tháng 12, 2019
Ý đồ của Trung Quốc khi xây dựng căn cứ quân sự ở Campuchia (phần 2)
Trở lại hai câu hỏi khiến giới quan sát quan tâm.
Xin thưa:
Về câu hỏi thứ nhất.
Trong cuộc cạnh tranh ngày một gia tăng để có được
các đối tác trung thành ở Đông Nam Á của Trung Quốc, Campuchia thường bị bỏ
qua. Lý do là Campuchia không phải là một bên tranh chấp ở Biển Đông và cũng
không có vai trò gì đối với một cường quốc bên ngoài đang tìm cách phong tỏa
giao thương đường biển của Trung Quốc; không mấy quan trọng đối với các dự án
giao thông vận tải của BRI vốn để mở rộng khả năng Trung Quốc tiếp cận thương mại
tới khu vực Ấn Độ Dương và giảm sự phụ thuộc của Trung Quốc vào eo biển Malacca
và các yết hầu hàng hải khác trong khu vực. Tuy nhiên, vị trí địa lý của
Campuchia lại có giá trị chiến lược nhất định đối với TQ. Nghĩa là, nếu có các
căn cứ quân sự tại Campuchia, sẽ giúp Trung Quốc mở rộng đáng kể tầm hoạt động
của máy bay chiến đấu, tên lửa chống hạm cũng như tăng cường được công tác do
thám, giám sát và tình báo, từ đó giúp cho TQ kiểm soát tình hình phía Nam Biển
Đông chắc chắn hơn, kể cả tình hình tại eo biển Malacca. Những căn cứ có được ở
Campuchia cũng cho phép các lực lượng trên biển của Trung Quốc, không chỉ hải
quân, mà cả lực lượng bán quân sự như cảnh sát biển và dân quân biển, duy trì sự
hiện diện dày đặc hơn xung quanh rìa phía nam của “đường chín đoạn”. Vô hình
dung cũng tạo điều kiện cho Trung Quốc gia tăng sức ép đối với Thailand, một đồng
minh dễ chao đảo của Mỹ; giúp Trung Quốc tiến gần hơn vùng biển giàu dầu mỏ
ngoài khơi phía Đông Nam Việt Nam, vùng biển có giá trị kinh tế bậc nhất đối với
nước này và đây cũng là nơi Trung Quốc đang tìm cách để kiểm soát. Những gì xảy
ra quanh các giàn khoan ở vùng biển của Việt Nam và Malaysia từ tháng 7/2019 đến
nay cho thấy, Trung Quốc thường tìm cách áp đặt quyền kiểm soát đối với các
vùng lãnh thổ bị tranh chấp bằng cách quấy rối các hoạt động thương mại với các
tàu dân sự. Vì thế, dù Campuchia có được coi là “thánh địa” của các tàu chiến
Trung Quốc hay không, thì việc nước này mở cửa các cảng để tiếp nhận tàu đánh
cá và tàu thương mại, cũng như các lực lượng bán quân sự của Trung Quốc sẽ là yếu
tố có giá trị xét trên khía cạnh này.
Đối với Campuchia, sự hiện diện của Trung Quốc không
chỉ giúp nước này tăng cường khả năng an ninh hàng hải, mà còn có thể gây sức
ép, buộc Thailand phải đàm phán về việc khai thác năng lượng chung ở vùng biển
có tranh chấp trên vịnh Thailand, một vấn đề mà Bangkok từ trước đến nay luôn tìm cách
né tránh, còn Campuchia không có ưu thế nào để thúc ép hợp tác.
Về câu hỏi thứ hai.
Có thể cho rằng, các lợi ích đối với Phnom Penh
trong quan hệ với Trung Quốc chủ yếu là về chính trị. Những năm tháng của thế kỷ
XX không có gì là tốt đẹp và đáng nhớ với Campuchia. Sau khi người Pháp phải chấm
dứt chế độ “thực dân hóa” trên toàn cõi Đông Dương, đến lượt người Mỹ lại ném
bom ồ ạt đường mòn Hồ Chí Minh, góp phần cho lực lượng Khmer Cộng sản, còn được
gọi là Khmer Đỏ, mở rộng ảnh hưởng và tiến tới “làm chủ” ở Campuchia những năm
1970 - 1980. Và rồi nạn diệt chủng và chiến tranh kéo dài cho đến những năm
1990 đã xóa sổ 20% dân số Campuchia, phá hủy các thiết chế và xã hội dân sự ở
nước này, làm tê liệt nền kinh tế Campuchia, trong khi các nước láng giềng xung
quanh bắt đầu hưởng lợi từ sự bùng nổ sản xuất thời hậu Chiến tranh Lạnh tại
khu vực.
Sau khi thoát khỏi nạn diệt chủng của Khmer Đỏ, đất
nước Campuchia dưới sự “chèo lái” của Thủ tướng Hun Xen đã trải qua những vật lộn
đầy khó khăn trên con đường tìm kiếm sự ổn định. Những năm đầu thế kỷ XXI, nền
kinh tế Campuchia phụ thuộc vào viện trợ và thị trường hàng dệt may phương Tây.
Điều này trở thành “cây gậy” để phương Tây “chọc ngoáy” vào nội bộ Campuchia
trong việc hướng đất nước này đi theo con đường Tư bản. Tuy nhiên, chính nó lại
tạo điều kiện cho Trung Quốc nhanh tay “chống lưng” cho chính quyền Hun Xen bằng
các khoản viện trợ về tài chính và quân sự. Đến nay, Trung Quốc là nước viện trợ
lớn nhất, nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất của Campuchia, trong khi một nửa số nợ
nước ngoài của Campuchia là từ Trung Quốc. Mới đây, ngày 29/07/2019, Thủ tướng
Hun Sen còn tuyên bố mua mới hàng chục nghìn đơn vị vũ khí từ Trung Quốc, trị
giá hơn 40 triệu USD. Giới quan sát cả trong và ngoài khu vực đều phải thừa nhận
rằng, Campuchia đã “tuột khỏi tầm tay” của phương Tây và họ đang ngày càng ngả
theo Trung Quốc. Thậm chí năm 2017, Phnom Penh đã từ chối chương trình viện trợ
quân sự của Mỹ và hủy các cuộc tập trận thường niên với Mỹ, nhưng lại tăng cường
quy mô tập trận với Trung Quốc.
Công bằng mà nói, Campuchia vẫn có lợi ích trong việc
duy trì cân bằng quan hệ nước lớn và khai thác sự cạnh tranh của Trung Quốc để
tranh thủ vốn đầu tư từ các đối thủ của TQ. Nhưng chết nỗi, ngoài nguồn nhân lực
giá rẻ, Campuchia hầu như không có tiềm năng gì để lôi kéo các công ty của Mỹ
và đồng minh bỏ vốn vào đầu tư. Với bản chất thực dụng, các công ty này không
muốn “vung tiền” vào những dự án quan trọng về chính trị nhưng không sinh lời
mà Campuchia đang thúc đẩy. Chỉ có Trung Quốc là sẵn sàng và đủ thực lực để
theo đuổi trò chơi này. Do đó, sức hút chính trị và nhất là thực lực tài chính
của Trung Quốc đã kéo Campuchia tiếp tục hợp tác với TQ và bỏ qua việc cân bằng
chiến lược. Vì thế, cho dù Quốc hội Mỹ mới thông qua một dự luật về việc áp đặt hạn chế thị thực
và phong tỏa tài sản đối với giới chức cầm quyền Campuchia cũng sẽ không tạo ra
thay đổi đáng kể nào đối với xu hướng Campuchia ngả sang Trung Quốc.
Song, việc Campuchia và Trung Quốc vội vã lên tiếng
phủ nhận câu chuyện về thỏa thuận bí mật liên quan đến căn cứ quân sự Ream cũng
cho thấy điểm yếu cơ bản trong quan hệ của hai đối tác này, cũng như chiến lược
của Trung Quốc về mở rộng quân sự. Các thỏa thuận về lập căn cứ quân sự ở nước
ngoài thường là chủ đề rất nhạy cảm về chính trị đối với bất kỳ nước nào, đòi hỏi
việc đàm phán phải khéo léo và một chiến lược quan hệ công chúng được xử lý cực
kỳ thận trọng. Nhưng thật sự là không bình thường nếu một nước liên tục phải
bào chữa cho sự dính líu của mình trong những dự án cơ sở hạ tầng ở nước ngoài
có vẻ như phục vụ cho mục đích thương mại, nhưng lại không đủ “dũng khí” để thừa
nhận thứ mà mình muốn cũng chính là những gì mà bất kỳ một cường quốc quân sự mới
nổi nào mong mỏi. Đơn cử như, rất lâu sau khi mở căn cứ quân sự đầu tiên ở nước
ngoài tại Djibouti, Trung Quốc vẫn tiếp tục khẳng định rằng, đây không phải là
một căn cứ quân sự.
Sâu xa hơn, vấn đề nằm ở chỗ các nước láng giềng
trong khu vực sẽ phải gia tăng cảnh giác trước những bước đi và tính toán chiến
lược của Trung Quốc. TQ cần các dự án BRI vì những lý do kinh tế, chính trị của
riêng mình. Nước này cũng cần triển khai sức mạnh quân sự ra bên ngoài để tái lập
trật tự khu vực theo ý mình. Các dự án BRI vì thế tiềm ẩn đầy nguy cơ chính trị
ở các nước tiếp nhận, khiến TQ liên tục lâm vào thế lúng túng khi cố gắng ngấm
ngầm xây dựng các dự án quy mô lớn, có khả năng lưỡng dụng không thể che giấu
và ít có khả năng sinh lợi, gây nghi ngờ về mục đích của TQ và những công cụ cưỡng
ép mà Trung Quốc sử dụng để đạt được mục tiêu. Việc công khai bác bỏ toan tính
quân sự không giúp gì được cho việc che giấu các tham vọng chiến lược mà nó sẽ
chỉ khiến Trung Quốc bị “lòi đuôi”. Cái sự “lòi đuôi” đó dẫn đến phản ứng ngược
là không những không đẩy được Mỹ rời khỏi khu vực mà còn kéo thêm các nước lớn
khác “xúm” vào. Giới quan sát có nhận xét rằng: Với túi tiền rủng rỉnh, chắc vẫn
đủ để Trung Quốc giành được Campuchia, nhưng không thể đủ để giành lấy Tây Thái
Bình Dương.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét