Đoàn kết dân tộc trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các dân tộc
Việt Nam là một quốc
gia đa dân tộc, với khoảng 14 triệu đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm 13,8% dân
số cả nước. Các dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn rộng, thuộc 51 tỉnh, 463
huyện, 5.453 xã (chủ yếu ở miền núi phía Bắc, Duyên hải miền Trung và Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ), trên chiều dài gần 5.000km đường biên giới với Trung Quốc,
Lào, Campuchia là “phên dậu” có ý nghĩa quan trọng đối với quốc phòng, an ninh
của đất nước. Lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh, sự đoàn kết thống nhất
là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Khi nào nhân dân đoàn kết,
“trên dưới một lòng” thì đất nước hưng thịnh, khi nào “lòng người ly tán, chia
rẽ và loạn ly” là lúc dân tộc suy vong, thù trong giặc ngoài, có nguy cơ mất nước.
Từ khi ra đời đến nay,
Đảng ta luôn xác định sứ mệnh kế thừa và phát huy truyền thống đại đoàn kết dân
tộc là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
sự điều hành, quản lý của Nhà nước đã hình thành quan hệ dân tộc xã hội chủ
nghĩa, với chính sách dân tộc nhất quán là “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng,
giúp đỡ nhau cùng phát triển” và đạt được những thành tựu quan trọng trên các
tĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; khối đại
đoàn kết giữa các dân tộc ngày càng bền chặt. Tuy nhiên, vấn đề dân tộc và giải
quyết vấn đề dân tộc, đoàn kết dân tộc đòi hỏi phải có thời gian lâu dài, không
thể nóng vội do vấn đề lịch sử, sự khác nhau giữa các dân tộc được hình thành
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bản sắc văn hóa... Đồng thời, còn
bị tác động, ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố từ bên ngoài nhân tố dân tộc, tôn giáo
trong môi trường quốc tế hóa ngày càng tăng. Đó là các trào lưu tư tưởng “đấu
tranh vì nhân quyền”, “quyền tự quyết của các dân tộc” và chủ nghĩa ly khai dân
tộc, dân tộc hẹp hòi,... ngày càng sôi động ở một số khu vực trên thế giới, vấn
đề này đã tạo điều kiện để các thế lực ly khai, cực đoan tôn giáo, khủng bố, bạo
lực cấu kết và lợi dụng, càng làm cho nhân tố dân tộc, vấn đề dân tộc, mâu thuẫn
dân tộc xuất hiện vấn đề mới, cục diện ngày càng phức tạp.
Những năm gần đây, ở
nhiều quốc gia, khu vực trên khắp các châu lục đã xảy ra nhiều cuộc xung đột sắc
tộc cướp đi hàng triệu người. Xét trên bình diện chung, những xung đột dân tộc
nảy sinh là do xung đột về lợi ích trong một quốc gia đa dân tộc. Có quốc gia,
xung đột lợi ích xảy ra do các dân tộc lớn thông qua các đại biểu của mình thường
giữ vị trí thống trị trong cơ cấu quyền lực, dẫn đến chi phối nhất định đối với
những quyết định trong phân phối của cải vật chất và ban hành các quy chế pháp
lý có lợi cho mình, làm cho các dân tộc thiểu số bị thiệt thòi buộc họ phải
vùng lên đấu tranh đòi lại quyền lợi của mình, ở nhiều quốc gia xung đột giữa
các dân tộc xảy ra còn do những vấn đề về lịch sử, cộng thêm âm mưu chống phá của
chủ nghĩa đế quốc. Với học thuyết “một quốc gia, một dân tộc”, họ gây ra chia rẽ,
xung đột, kích động chủ nghĩa ly khai giữa các dân tộc, giữa các quốc gia, mục
đích tạo ra các cuộc chiến tranh để được hưởng lợi ích từ những xung đột, mâu
thuẫn đó.
Đối với Việt Nam, các
thế lực thù địch luôn tìm mọi cách phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
chia rẽ cộng đồng các dân tộc, nhất là chia rẽ đồng bào dân tộc thiểu số với đồng
bào Kinh, kích động ly khai, tự trị; chia rẽ các dân tộc với Đảng, Nhà nước và
chế độ. Để thực hiện âm mưu đó, chúng đã và đang tiến hành nhiều phương thức,
thủ đoạn tinh vi, với những hoạt động lén lút, núp dưới chiêu bài “dân chủ,
nhân quyền”, vừa bí mật, vừa “công khai hóa, quốc tế hóa”, kêu gọi bên ngoài
can thiệp khi bị xử lý; gắn vấn đề dân tộc với vấn đề nhân quyền và tôn giáo;
tăng cường phát triển tôn giáo ở các vùng dân tộc thiểu số để tập hợp quần
chúng tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở những vùng trọng yếu về quốc
phòng, an ninh, như: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Ý đồ của chúng là kết hợp
tổ chức lực lượng từ bên ngoài với tạo dựng lực lượng ở bên trong gây ảnh hưởng
trong các vùng dân tộc, với âm mưu “quốc tế hóa” các sự kiện, “tôn giáo hóa” vấn
đề dân tộc, kích động và bóp méo vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” của Việt Nam;
khi có thời cơ, thì kích động bạo loạn, lật đổ. Thực tế các “điểm nóng” về
chính trị - xã hội xảy ra ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ những năm gần đây
cho thấy, sự chỉ đạo, hậu thuẫn trực tiếp của các đối tượng bên ngoài là một yếu
tố thúc đẩy bọn phản động trong nước gieo rắc tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ly
khai, tự trị; kích động đồng bào phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
âm mưu quốc tế hóa vấn đề dân tộc bằng nhiều thủ đoạn. Chúng lợi dụng những khó
khăn về đời sống và khuyết điểm, thiếu sót trong việc thực hiện chính sách dân
tộc, tôn giáo và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc để
tuyên truyền, kích động chống đối, thổi phồng những khác biệt giữa các dân tộc
thành các mâu thuẫn, xung đột, nhằm kích động sự chống đối trong người dân tộc
thiểu số với người Kinh. Lợi dụng chính sách đổi mới, tôn trọng tự do tín ngưỡng
tôn giáo của Đảng, Nhà nước; triệt để sử dụng các phương tiện thông tin đại
chúng, internet, mạng xã hội để đẩy mạnh hoạt động chống phá, kích động chia rẽ
dân tộc, xuyên tạc, vu cáo, đả kích chế độ, tuyên truyền đạo trái pháp luật núp
bóng các hoạt động từ thiện, du lịch, hợp tác, tài trợ cho con em những người
theo đạo...
Thực hiện nhất quán
quan điểm chiến lược Đại đoàn kết toàn dân tộc, giải quyết hài hòa lợi ích giữa
các dân tộc luôn là công tác quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
và Nhà nước ta. Với mối quan hệ biện chứng giữa công tác dân tộc với công tác
tôn giáo và tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm thế nào để xử lý một
cách đúng đắn mối quan hệ dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc, các dân tộc
cùng đoàn kết, phát triển; chống lại âm mưu đòi ly khai, tự trị đòi hòi phải có
chiến lược trong việc thực hiện chính sách dân tộc bao gồm tất cả các lĩnh vực
và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Đây là vấn đề rất quan trọng của quốc gia, liên quan đến sự sống còn của chế độ.
Giải quyết hài hòa lợi ích mối quan hệ đó chúng ta mới tập hợp, đoàn kết được
các dân tộc, thúc đẩy xã hội phát triển hài hòa, duy trì thống nhất đất nước và
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Trên cơ sở thực hiện nhất quán và kiên trì chính sách
bình đẳng dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy giúp đỡ nhau giữa
các dân tộc để cùng bình đẳng, đoàn kết, phát triển phồn vinh, vấn đề căn bản
nhất là nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ lợi ích các dân tộc, trong đó,
cần tập trung trên các lĩnh vực sau:
Về chính trị: Đảm bảo
quyền làm chủ của các dân tộc; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm cán bộ
người dân tộc thiểu số, xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ngày
càng có khả năng gánh vác nhiều hơn công việc của địa phương. Xây dựng cơ cấu
các dân tộc có đủ thành phần tham gia trong Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp.
Chính phủ phải có chính sách để từng dân tộc thiểu số dần tự quản lý mọi công
việc của dân tộc mình với sự hỗ trợ của các dân tộc anh em khác, nhằm thực hiện
các dân tộc bình đẳng về mọi mặt. Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ cơ sở, bảo đảm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng thụ”. Xóa bỏ những quy định
mang tính bất bình đẳng giữa các dân tộc; tẩy trừ thành kiến giữa các dân tộc
do lịch sử để lại. Các dân tộc được tự do bày tỏ tâm tư, nguyện vọng và mong muốn
của mình bằng nhiều hình thức, “kênh” kết nối đa dạng thông qua Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức đoàn thể để kiến nghị với Đảng, Nhà nước.
Về kinh tế: Nhà nước cần
xây dựng các chính sách phù hợp với từng vùng, miền, từng dân tộc trên cơ sở
tăng cường ưu tiên các nguồn lực để phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo,
xây dựng nông thôn mới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cường vận động,
khuyến khích đồng bào các dân tộc thiểu số chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
sản xuất hàng hóa, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm; phát huy lợi thế, tiềm
năng sẵn có, nét đặc sắc, đặc sản văn hóa. Tổ chức định canh, định cư gắn với
nghiên cứu phát triển sinh kế bền vững theo quy hoạch cụ thể từng vùng, từng tiểu
vùng cho phù hợp với phát triển nông nghiệp; phát triển chăn nuôi, nghề rừng,
trồng cây lương thực và cây công nghiệp... Nhà nước cần đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng cho vùng đồng bào dân tộc bao gồm hệ thống “điện, đường, trường, trạm”,
tăng cường cho đồng bào tiếp cận với khoa học kỹ thuật...
Về văn hóa - xã hội: Có
chính sách bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc thiểu số, bảo
tồn các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo
và phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số; đối xử đúng sự khác nhau giữa
các dân tộc, xử lý thỏa đáng mâu thuẫn và vấn đề ảnh hưởng tới quan hệ dân tộc.
Tăng cường công tác quản lý và phục vụ, bảo đảm quyền lợi chính đáng của các
dân tộc theo pháp luật. Chú trọng nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài các dân
tộc thiểu số; phát triển loại hình trường thanh niên dân tộc vừa học vừa làm;
xóa bỏ các hủ tục; nâng cao chất lượng hệ thống y tế ở cơ sở, đẩy mạnh vệ sinh
phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe đồng bào.
Về đoàn kết các dân tộc:
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục ý thức đại đoàn kết các dân tộc, phát huy
tinh thần dân tộc, lấy chủ nghĩa yêu nước là hạt nhân, làm cho tư tưởng dân tộc
đa số và dân tộc thiểu số không tách rời nhau, ngày càng đoàn kết, gắn bó sâu sắc;
tuyên truyền vận động đồng bào đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành chủ
trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh ngăn ngừa các
hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chia rẽ, ly khai, phá hoại khối
đại đoàn kết các dân tộc của các thế lực thù địch.
Trong bối cảnh thế giới
hiện nay, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc,
tôn giáo, các hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai,... liên tục diễn ra ở nhiều
nơi. Ở trong nước, các thế lực thù địch đã và đang tìm mọi cách khoét sâu và lợi
dụng những khó khăn của đồng bào các dân tộc thiểu số để xuyên tạc chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm
phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Điều đó đòi hỏi
hệ thống chính trị các cấp từ Trung ương đến cơ sở cần phải tiếp tục củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân tộc; giải quyết tốt vấn đề dân tộc gắn với vấn đề tôn
giáo và lợi ích giữa các dân tộc.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét