Có phải chế độ một đảng cầm quyền là cản trở sự phát triển của đất nước
“Chế độ một đảng cầm quyền là cản trở sự
phát triển của đất nước”, chỉ là phiên bản lỗi của luận điệu kêu gọi, cổ súy
cho đa nguyên, đa đảng, đòi chia quyền lãnh đạo, dẫn tới tiếm quyền lãnh đạo của
Đảng Cộng sản. Mục đích của họ là phủ nhận vai trò duy nhất cầm quyền của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam.
Đây là một loại luận điệu hết sức nguy
hiểm, bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề một đảng hay đa đảng với vấn đề phát
triển. Vậy có phải một đảng thì cản trở, còn đa đảng thì tạo điều kiện cho sự
phát triển đất nước? Cho đến nay, vẫn chưa có cơ sở khoa học nào chứng tỏ được
điều này. Còn thực tế cho thấy, sự phát triển của một nước không hoàn toàn phụ
thuộc vào việc nước đó có bao nhiêu đảng chính trị, mà phụ thuộc vào nhiều yếu
tố: sản xuất, điều kiện tự nhiên, tình hình dân số, v.v. Có nước một đảng cầm
quyền vẫn bảo đảm dân chủ, phát triển và giàu có; có nước nhiều đảng cầm quyền
vẫn kém phát triển, vẫn mất dân chủ, vẫn là nước nghèo. Rõ ràng, một đảng không
phải là cản trở và nhiều đảng không phải là cứu cánh cho sự phát triển của đất
nước. Dưới góc độ đảng chính trị, vấn đề thuộc về bản chất của các đảng, lý tưởng
mà các đảng theo đuổi, lợi ích xã hội mà nó đại diện, bảo vệ; uy tín và năng lực
tập hợp, liên kết, lãnh đạo các lực lượng xã hội cùng thực hiện mục tiêu chung
của quốc gia - dân tộc.
Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm
quyền, có hai khả năng phải tính đến: Thứ nhất, một đảng cầm quyền có lợi ích
riêng thì đa đảng trong hệ thống chính trị là cần thiết. Trong trường hợp này,
nếu chỉ có một đảng là độc tài. Thứ hai, một đảng không có lợi ích riêng khi cầm
quyền, cầm quyền vì lợi ích chung thì đa đảng dễ gây bè phái, phân tán.
Hiện nay, ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo chính trị, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Vậy Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm gì để không rơi vào độc tài, cản trở sự phát
triển đất nước? Để làm rõ vấn đề, chúng ta cần phân tích trên các khía cạnh
sau:
Một là, bản chất và mục tiêu của Đảng Cộng
sản Việt Nam là lãnh đạo đất nước phát triển. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”1.
Ngoài lợi ích trên, Đảng Cộng sản Việt Nam không còn lợi ích nào khác. Bản chất
của Đảng là sự thống nhất hài hòa giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân
tộc làm cho Đảng thực sự được nhân dân kính trọng, tin yêu gọi là “Đảng ta”. Mục
tiêu của Đảng là xây dựng một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”2 - là mục tiêu, lý tưởng cao cả không bao giờ thay đổi trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Hai là, Đảng ta đã tìm ra định hướng
phát triển và trực tiếp lãnh đạo các cuộc cách mạng để phát triển đất nước.
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam rơi vào bế tắc, tưởng như
không có đường ra. Giữa lúc đen tối ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chỉ ra
con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc. Trong Luận cương chính trị đầu
tiên của Đảng (tháng 10/1930) xác định phương hướng chiến lược của cách mạng
là: lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiếp tục phát triển, bỏ
qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến có quan hệ
khăng khít với nhau. Với đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn đó, Đảng lãnh
đạo nhân dân làm cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công lật đổ ách thống
trị của chế độ thực dân phong kiến, thiết lập nên Nhà nước dân chủ đầu tiên ở
Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên độc
lập, tự do. Nhưng sau khi vừa mới ra đời, chính quyền cách mạng non trẻ đã phải
đối phó với hàng loạt nguy cơ, thách thức tưởng chừng khó có thể vượt qua. Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quyết sách đúng đắn, sáng suốt, kịp thời
để ứng phó với những thách thức đe dọa sự tồn vong của chính quyền cách mạng
non trẻ, xây dựng chế độ mới, đưa cách mạng đi lên.
Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp với
thắng lợi thuộc về nhân dân ta, Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, nước Việt
Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền, với hai chế độ chính trị khác nhau.
Trong khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng (10/10/1954), bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, thì ở miền Nam, Mỹ vào thay chân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm
lên nắm chính quyền, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
lúc này được Đảng ta xác định là tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở
hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Với Chiến dịch Hồ
Chí Minh toàn thắng, chúng ta đã kết thúc thắng lợi 21 năm kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước và 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc (1945 - 1975),
chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ
nhân dân trong cả nước, thống nhất Tổ quốc; mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử
dân tộc - kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau
khi thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế, vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống
xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời, tập trung xây dựng cơ sở vật chất của
chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài mô hình,
cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp không còn phù hợp và
đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi còn chủ quan, duy ý chí. Đó là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong
những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đánh giá tình hình đất
nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986)
đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ba là, đất nước đạt nhiều thành tựu to lớn
và phát triển không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua 35
năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Kinh tế - xã hội nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao. Đổi mới mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược có bước chuyển biến
tích cực, đạt một số kết quả đáng khích lệ. Thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập theo hướng đầy đủ, hiện đại và hội nhập.
Giáo dục và đào tạo có bước đổi mới, đóng góp tích cực vào xây dựng con người,
phát triển nguồn nhân lực. Nhiều công trình kết cấu hạ tầng hiện đại được xây dựng,
đưa vào sử dụng. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được phát triển, đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Giảm nghèo nhanh, được
cộng đồng quốc tế đánh giá cao. An sinh xã hội, phúc lợi xã hội từng bước được
nâng cao. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
được chú trọng; quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an
ninh, trật tự, an toàn xã hội. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; vị thế
và uy tín quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao. Sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cả hệ thống chính trị có nhiều tiến
bộ, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; tổ chức lập pháp, hành pháp và tư pháp
tiếp tục được hoàn thiện. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt. Việc học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng thực chất,
đi vào chiều sâu, dần trở thành ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm của mỗi tổ
chức đảng, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đất nước
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm
tự hào, động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường
đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Đại hội XIII của Đảng xác định chủ đề:
“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh;
khơi dậy ý chí và quyết tâm phát triển đất nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây là những định hướng lớn, tư tưởng
chỉ đạo, động lực chính và mục tiêu phát triển đất nước; những nhiệm vụ trọng
tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong nhiệm kỳ 2021 - 2026 và những năm
tiếp theo.
Rõ ràng là, hơn 91 năm, dưới sự lãnh đạo
của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã hồi sinh và không ngừng thay da đổi
thịt. Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến nghèo nàn, lạc hậu và không có tên
trên bản đồ thế giới đã vươn lên tiến cùng thời đại, làm rạng danh non sông
dòng giống Lạc Hồng. Với những thành tựu to lớn đã đạt được, cùng với phẩm chất,
năng lực, đạo đức và uy tín của mình, sự tin yêu của nhân dân, chắc chắn rằng:
hiện tại và tương lai, sự lãnh đạo của Ðảng ta vẫn sẽ là sự lựa chọn duy nhất,
sự ủy thác tín nhiệm cao nhất của Nhân dân và Dân tộc dành cho Đảng. Đó là niềm
tự hào, là trọng trách lớn lao của Đảng trước Đất nước, Nhân dân và Dân tộc,
đây điều mà không một đảng chính trị nào khác có được. Vì thế, Đảng Cộng sản Việt
Nam quyết không từ bỏ quyền độc tôn lãnh đạo đất nước và xã hội mà nhân dân đã ủy
thác; Nhân dân và Dân tộc Việt Nam không cần, không chấp nhận đa đảng đối lập
như các thế lực thù địch thường rêu rao.
PGS, TS. PHAN TRỌNG HÀO, Hội đồng Lý luận
Trung ương

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét