Thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội
Qua các giai đoạn của đất nước, Đảng và Nhà
nước Việt Nam luôn quan tâm đề ra những quan điểm, chủ trương đúng đắn để xử lý
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
“Gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính
sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá
trình phát triển.”
Yêu cầu mang tính nguyên tắc nhằm bảo đảm sự
phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
nêu rõ trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.”
Đó cũng chính là hướng đất nước có dân số hơn
97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em; trong đó hơn 60% số dân sống ở nông
thôn, đi tới mục tiêu phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội,
không để gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Qua các giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng
và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đề ra những quan điểm, chủ trương đúng đắn để
xử lý mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Tư tưởng đó dần được hoàn thiện qua các kỳ đại hội, thể hiện trong các văn kiện
của Đảng và được thể chế hóa trong các chính sách của Nhà nước.
Đặc biệt, trong bài viết “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam,” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Phải gắn kinh tế với xã hội, thống
nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và
trong suốt quá trình phát triển.
Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục
tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm
nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó
khăn.
Đồng tình với những luận điểm của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đoàn Thế Hanh, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh từng khẳng định không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần, cùng với những chính sách nhân văn, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội,
nhằm thỏa mãn nhu cầu sống, lao động, cống hiến và thụ hưởng của mỗi người và mọi
người dân là mục tiêu phấn đấu, là tính chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng,
nhân dân ta chủ trương và đang tiến hành xây dựng.
Thực tế cho thấy hơn ba thập niên đổi mới,
cùng với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế, việc thực hiện tiến bộ xã hội ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu:
lực lượng sản xuất phát triển với hàm lượng khoa học ngày càng cao và với quan
hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế tăng trưởng
nhanh, chất lượng được cải thiện; quyền làm chủ của nhân dân đối với mọi mặt đời
sống xã hội được bảo đảm; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân ngày càng hoàn thiện theo hướng trong sạch, vững mạnh.
Dân chủ được phát huy, kỷ luật, kỷ cương được
bảo đảm; văn hóa, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ được mở mang, trình độ
dân trí phát triển; những thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội được đấu tranh loại bỏ
dần; môi trường sinh thái được quan tâm bảo vệ hơn; con người có điều kiện hơn
để phát triển về thể chất, trí tuệ, đạo đức, nghề nghiệp, có cuộc sống ngày
càng ấm no, hạnh phúc; được cống hiến và hưởng thụ công bằng thành quả của sự
phát triển.
Các Đại hội Đảng gần đây đều xác định con người
vừa là trung tâm chiến lược, vừa là mục tiêu, động lực của phát triển; thực hiện
công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển. Đại
hội XII của Đảng nêu rõ: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của
nhân dân.” Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng phát triển tiếp tục nắm vững
và xử lý tốt mối quan hệ lớn “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.”
Đích hướng tới của tiến bộ xã hội nhằm phát
triển toàn diện con người đã đạt được những bước tiến dài khi Tổng kết nhiệm kỳ
Đại hội XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, Đảng ta đánh giá: “Chính trị, xã hội ổn
định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực an sinh xã hội,
y tế, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn
hóa, xây dựng con người Việt Nam,… có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi
bật.”
Trên cơ sở những thành tựu đạt được trong suốt
nhiều năm qua, Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu
trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Đến nay, Việt
Nam là một trong những nước nghiêm túc thực hiện các mục tiêu phát triển của
Liên hợp quốc, nhất là các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, lồng ghép
các mục tiêu đó vào các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của Việt
Nam, hài hòa với các khuôn khổ hợp tác ký kết với Liên hợp quốc theo từng giai
đoạn. 
Xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh tế đi
đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, không để gia tăng khoảng cách giàu nghèo
và bất bình đẳng xã hội, suốt những năm qua, Đảng, Nhà nước xác định xóa đói,
giảm nghèo là mục tiêu, biện pháp cần tiến hành kiên trì, bền bỉ. Xóa đói, giảm
nghèo vừa nâng cao chất lượng nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo
vệ Tổ quốc vừa góp phần giữ vững ổn định chính trị-xã hội, giảm bớt chênh lệch
thu nhập giữa các nhóm dân cư, vừa thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta đang hướng tới.
Đặc biệt là khi đại dịch COVID-19 bùng phát,
Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp phòng, chống dịch mạnh mẽ, quyết liệt để
thực hiện mục tiêu ưu tiên trước hết, trên hết là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của
Nhân dân và triển khai những chương trình hỗ trợ chưa từng có trong tiền lệ để
giúp đỡ những trường hợp gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi đại dịch.
Chính bởi sự kiên trì, bền bỉ đó, dù gặp rất
nhiều khó khăn, nhưng công tác xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam thời gian qua
đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng, trở thành một trong những hình mẫu về thành
tựu xóa đói, giảm nghèo, là câu chuyện thành công, truyền cảm hứng cho bạn bè
năm châu.
Trong 10 năm qua, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm liên
tục trên phạm vi cả nước và các vùng miền. Nếu như năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo cả
nước lên tới 14,2%, đến năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm còn 4,25%. Việt Nam đã
hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo trước 10 năm và được cộng
đồng quốc tế đánh giá là hình mẫu giảm nghèo hiệu quả.
Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm
2021 theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 của Bộ
Lao động-Thương binh và Xã hội mới đây cho thấy tỷ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm xuống,
còn 2,23%, tỷ lệ hộ cận nghèo là 3,11%. Có 6 tỉnh, thành phố không có hộ nghèo
gồm Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Tây Ninh. Đặc
biệt, Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương là 4 địa phương “trắng”
cả hộ nghèo và hộ cận nghèo.
Theo Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã
hội Đào Ngọc Dung, giảm nghèo là điểm sáng của Việt Nam, được cộng đồng quốc tế
ghi nhận và đánh giá cao, coi đây là một trong những câu chuyện thành công nhất
và đóng góp nhiều bài học thành công cho thế giới.
Đối với phúc lợi xã hội, mặc dù còn nhiều khó
khăn nhưng Nhà nước đã dành 21% ngân sách cho phúc lợi xã hội, là mức cao nhất
trong số các nước ASEAN, nhờ đó đã cơ bản thực hiện thành công các mục tiêu,
nhiệm vụ đặt ra. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, thông qua chính sách hỗ trợ
trực tiếp của Chính phủ và chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, đã
hỗ trợ hơn 14,4 triệu người với tổng kinh phí hơn 33.000 tỷ đồng. Trong 5 năm
qua, đời sống người có công không ngừng được nâng lên; hằng năm ngân sách Nhà
nước dành hơn 32.000 tỷ đồng để thực hiện các chế độ ưu đãi người có công và
thân nhân.
Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từng
bước trở thành trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt việc phát
triển bảo hiểm xã hội tự nguyện theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW có bước
phát triển vượt bậc.
Đến nay, trên 90% dân số đã tham gia bảo hiểm y tế. Chính sách trợ giúp xã hội đã bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng ở mọi lứa tuổi, trẻ em được bảo vệ và chăm sóc, xây dựng môi trường sống an toàn. Thu hẹp khoảng cách giới trên tất cả các lĩnh vực, chỉ số giới của Việt Nam nằm trong các quốc gia thuộc nhóm cao nhất trong 5 nhóm trên thế giới./.
Hot (焦点)
- 
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
 - 
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
 - 
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
 - 
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
 - 
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
 - 
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
 - 
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
 - 
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
 - 
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
 - 
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
 






Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét