Home » biendao - tiếng Việt
Thứ Hai, 19 tháng 6, 2017
Cách thức để Mỹ ngăn chặn bước tiến trên biển của Trung Quốc: Chuyển hướng Chính sách (phần 1)
Biển Đông đang nhanh chóng trở
thành tuyến đường biển quan trọng nhất thế giới. Với vai trò là hành lang chính
kết nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Biển Đông chuyên chở phần ba tổng giá
trị thương mại hàng hải toàn cầu, trị giá trên 5,000 tỷ đô la Mỹ, trong đó mỗi
năm, 1,200 tỷ đô Mỹ đi vào hoặc đi ra khỏi nước Mỹ. Trữ lượng dầu khí và các
khu vực đánh cá rộng lớn vốn cung cấp 12% lượng cá đánh bắt được hàng năm trên thế
giới, cung cấp năng lượng và thực phẩm cho 620 triệu người trong khu vực Đông
Nam Á.
Nhưng mọi thứ không diễn ra êm
đẹp tại vùng biển này. Sáu bên, bao gồm Brunei, Trung Quốc, Malaysia,
Philippines, Đài Loan và Việt Nam, có những yêu sách chồng lấn nhau đối với
hàng trăm đảo đá và rạn san hô nằm rải rác trong vùng biển này. Chủ quyền đối với
những lãnh thổ đó không chỉ là thể diện quốc gia, mà còn mang lại những quyền lợi
có giá trị khổng lồ liên quan đến khai thác dầu, đánh bắt cá, và triển khai tàu
quân sự tại các vùng nước xung quanh. Do đó, trong hàng thập kỷ qua, các quốc
gia đã phản đối mạnh mẽ yêu sách của nhau, đôi khi còn sử dụng đến cả vũ lực.
Không bên nào thành công trong việc thống trị khu vực này, và Mỹ đã lựa chọn giữ
quan điểm trung lập trong các tranh chấp chủ quyền. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây, Trung Quốc đã bắt đầu khẳng định các yêu sách của mình mạnh mẽ hơn và
giờ đây đang sẵn sàng để chiếm quyền kiểm soát vùng biển này. Nếu Trung Quốc
thành công, quốc gia này sẽ giáng một đòn nặng nề đến ảnh hưởng của Mỹ trong
khu vực, làm nghiêng cân bằng quyền lực tại châu Á theo hướng có lợi cho Trung
Quốc.
Thời gian đang không còn nhiều
để ngăn chặn bước tiến của Trung Quốc. Với chính sách hiện đang lưỡng lự của Mỹ,
chính quyền Trump cần phải cứng rắn hơn. Ngoài các biện pháp ngoại giao, chính
quyền Trump cần có những biện pháp răn đe bằng việc cảnh báo Trung Quốc rằng nếu
nước này còn hung hăng thì Mỹ sẽ từ bỏ quan điểm trung lập và trợ giúp các quốc
gia khác trong khu vực bảo vệ các yêu sách của mình. Washington cần làm rõ rằng
Mỹ có thể chấp nhận một sự bế tắc ở châu Á nhưng không thể chấp nhận quyền bá
chủ của Trung Quốc.
Bước tiến của Trung Quốc
Trung Quốc đã khẳng định “chủ
quyền không thể tranh cãi” đối với các thực thể trên Biển Đông và các quyền lợi
biển đối với các vùng nước trong khu vực “đường 9 đoạn”, vốn trải dọc theo bờ
biển của các bên yêu sách khác và bao trùm gần hết toàn bộ Biển Đông. Mặc dù
trước đây Trung Quốc không đủ sức mạnh quân sự để thực thi các yêu sách này,
nhưng điều này đang thay đổi nhanh chóng. Hơn nữa, sau cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008, tình hình kinh tế khó khăn của các nước phương Tây đã khiến Bắc
Kinh tin rằng đây là thời cơ chín muồi cho Trung Quốc thể hiện sức mạnh của
mình.
Kể từ đó, Trung Quốc đã tiến
hành một loạt hành động để giành kiểm soát tại Biển Đông. Vào năm 2009, các tàu
Trung Quốc đã quấy rối tàu tuần dương Impeccable của Mỹ khi tàu này đang thực
hiện nhiệm vụ hàng ngày tại Biển Đông. Vào năm 2011, tàu tuần tra của Trung Quốc
đã cắt cáp của một tàu Việt Nam đang thăm dò dầu khí. Vào năm 2012, lực lượng hải
quân và tuần duyên Trung Quốc đã xâm chiếm và phong tỏa bãi cạn Scarborough, một
rạn san hô đang tranh chấp có vị trí tại vùng đặc quyền kinh tế của
Philippines. Vào năm 2013, Trung Quốc đã cử một tàu tuần tra có vũ trang vào
vùng biển của Indonesia để yêu cầu thả một thuỷ thủ Trung Quốc bị chính quyền
Indonesia bắt giữ do đánh bắt cá bất hợp pháp tại vùng nước xung quanh quần đảo
Natuna của Indonesia.
Sau đó, vào đầu năm 2014, các
nỗ lực của Trung Quốc để khẳng định quyền hành trên Biển Đông đã gia tăng nhanh
chóng. Các tàu Trung Quốc đã bắt đầu các dự án nạo vét để cải tạo bảy rạn san
hô mà Trung Quốc đã kiểm soát ở quần đảo Trường Sa, một quần đảo nằm ở nửa phía
nam của Biển Đông. Trong khoảng thời gian 18 tháng, Trung Quốc đã cải tạo được
gần 3.000 mẫu đất. (Trái lại, trong vài thập kỷ trước, Malaysia, Philippines,
Đài Loan và Việt Nam đã cải tạo tổng cộng ít hơn 150 mẫu). Mặc dù có sự đảm bảo
của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 9 năm 2015 rằng Trung Quốc
"không có ý định quân sự hoá" Biển Đông, Trung Quốc đã nhanh chóng
chuyển đổi các đảo nhân tạo của mình thành các căn cứ quân sự tiên tiến, gồm đầy
đủ các sân bay, đường băng, cảng, và hệ thống phòng không và chống tên lửa. Trong
một khoảng thời gian ngắn, Trung Quốc đã đặt nền móng cho việc kiểm soát Biển
Đông.
Nếu Trung Quốc thành công
trong nỗ lực này, Trung Quốc sẽ dễ dàng thành lập một vùng ảnh hưởng khổng lồ ở
bờ biển phía Nam của mình, không cho các quốc gia khác trong khu vực quyền lựa
chọn nào khác ngoài việc tuân theo ý chí của Trung Quốc. Điều này sẽ làm cản trở
các mối liên minh và hợp tác của Mỹ, đe doạ việc Mỹ tiếp cận thị trường và các
nguồn lực của khu vực, và hạn chế khả năng của Mỹ trong việc triển khai sức mạnh
quân sự và ảnh hưởng chính trị ở châu Á.
Nước Mỹ không can dự
Mặc cho nhiều mối liên hệ to lớn,
Mỹ đã không thể ngăn chặn sự quả quyết của Trung Quốc ở Biển Đông. Về phần
mình, Washington đã tin rằng khi Trung Quốc phát triển mạnh hơn và tham gia nhiều
hơn với thế giới, Trung Quốc tự nhiên sẽ chấp nhận các quy tắc và chuẩn mực quốc
tế. Trong hơn một thập kỷ, kim chỉ nam của chính sách của Mỹ là đưa Trung Quốc
vào khuôn khổ vào thứ mà Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Robert Zoellick mô tả năm
2005 là “một bên liên quan có trách nhiệm”- sẽ tuân thủ hệ thống quốc tế hoặc,
ít nhất, hợp tác với các cường quốc hiện thời để xem xét lại trật tự toàn cầu.
Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ đã cho rằng họ có thể giải quyết tốt hơn
những thách thức toàn cầu khi có Bắc Kinh cùng tham gia.
Mỹ bổ sung kế hoạch nhằm đưa
Trung Quốc hội nhập vào hệ thống chủ đạo với nỗ lực giảm thiểu những đối đầu
không đáng có. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nói về nhu cầu cần “tìm một
câu trả lời mới cho câu hỏi điều gì sẽ xảy ra khi một cường quốc hiện thời và một
cường quốc đang trỗi dậy đụng độ nhau.” Bà Clinton đang đề cập đến mối nguy hiểm
của việc rơi vào “bẫy Thucydides,” xung đột giữa một cường quốc nguyên trạng và
một cường quốc mới nổi. Như một sử gia người Athen đã viết, “sự trỗi dậy của
Athens và nỗi lo sợ mà điều đó gây ra ở Sparta đã làm cho chiến tranh trở thành
điều chắc chắn xảy ra.” Thận trọng trước một hệ quả tương tự, các nhà hoạch định
chính sách Mỹ đã tìm kiếm các phương pháp để giảm thiểu căng thẳng và phòng
tránh xung đột bất cứ khi nào có thể.
Cách tiếp cận này đã có những
thành công nhất định. Hiệp định khí hậu Paris và Thoả thuận hạt nhân Iran đều
là kết quả trực tiếp từ các nỗ lực song phương trong việc giải quyết cùng nhau
các vấn đề toàn cầu. Trong khi đó, các quan chức Mỹ và Trung Quốc đã trao đổi
thường xuyên, giảm thiểu những hiểu lầm và thậm chí tránh được các khủng hoảng
nghiêm trọng mà có thể dẫn tới xung đột tức thì.
Áp dụng chiến thuật này vào Biển
Đông, chính quyền Obama tạo ra áp lực ngoại giao lên tất cả các bên yêu sách để
giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế.
Để ngăn việc Trung Quốc sử dụng vũ lực, Mỹ đã tăng cường hiện diện quân sự
trong khu vực trong khi làm sâu sắc hơn các quan hệ liên minh và hợp tác như một
phần trong chiến lược “tái cân bằng” sang châu Á. Và mặc dù Bắc Kinh hiếm khi
nhìn nhận điều đó theo cách này, Mỹ đã quan tâm đến việc không lựa chọn ngả về
bên nào trong các tranh chấp chủ quyền, ví dụ, cử các tàu đến để thực thi quyền
tự do hàng hải trong các vùng nước yêu sách bởi nhiều bên, không chỉ có Trung
Quốc.
Mặc dù chiến lược này đã giúp
Mỹ tránh được các khủng hoảng nghiêm trọng, nó đã không ngăn cản được sự mở rộng
của Trung Quốc tại Biển Đông. Vào năm 2015, nhắc lại một quan điểm rằng các quan
chức Mỹ đã truyền đạt hơn một thập kỷ, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã tuyên bố
trong một cuộc họp báo chung với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, “Mỹ hoan
nghênh sự trỗi dậy hoà bình, ổn định, thịnh vượng và là một bên tham gia có
trách nhiệm trong các vấn đề toàn cầu của Trung Quốc.” Tuy nhiên Washington đã
không chỉ rõ rằng nước Mỹ sẽ làm gì nếu Bắc Kinh không đáp ứng được tiêu chuẩn
đó - như thường xảy ra trong các năm gần đây. Mong muốn của Mỹ trong việc né
tránh xung đột có nghĩa rằng gần như mọi lúc Trung Quốc hành động một cách
cương quyết hay thách thức luật pháp quốc tế ở Biển Đông, Washington ngay lập tức
hành động để giảm căng thẳng, qua đó để cho Trung Quốc giành thêm được lợi thế.
Đây sẽ là một chiến lược hợp
lý nếu né tránh chiến tranh là thách thức duy nhất tạo ra bởi sự trỗi dậy của
Trung Quốc. Nhưng vấn đề không phải như vậy. Quân đội Mỹ và đồng minh tiếp tục
ngăn cản Trung Quốc gây ra sự đối đầu quân sự nghiêm trọng với Mỹ, nhưng không
thể kiểm soát việc Trung Quốc dần dần mở rộng ảnh hưởng. Thay vào đó, cách tiếp
cận né tránh rủi ro của Mỹ đã cho phép Trung Quốc từng bước thiết lập kiểm soát
đối với toàn bộ Biển Đông.
Các nhà hoạch định chính sách
Mỹ cần nhận ra rằng hành động của Trung Quốc trên biển là dựa trên nhận thức của
nước này về mức độ Mỹ sẽ phản ứng. Sự thiếu phản kháng của Mỹ đã khiến Bắc Kinh
cho rằng Mỹ sẽ không để quan hệ với Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi vấn đề Biển
Đông. Do đó, mối đe doạ lớn nhất đối với Mỹ ngày nay ở châu Á là bá quyền của
Trung Quốc, chứ không phải chiến tranh giữa các siêu cường. Vai trò lãnh đạo
trong khu vực của Mỹ sẽ dần mất đi chứ không sụp đổ ngay lập tức.
Cú nước rút cuối cùng
Tin tốt là mặc dù Trung Quốc
đã tạo ra những bước tiến lớn tiến tới kiểm soát hoàn toàn Biển Đông, Trung Quốc
vẫn chưa đạt được điều này. Để hoàn thành việc kiểm soát, Trung Quốc cần cải tạo
thêm đảo, đặc biệt là tại bãi cạn Scarborough nằm ở phía đông Biển Đông, nơi
Trung Quốc đang thiếu căn cứ hoạt động. Sau đó, Trung Quốc sẽ cần phát triển khả
năng ngăn cản quân đội nước ngoài tiếp cận vùng nước và vùng trời phía trên Biển
Đông, bằng việc triển khai một loạt các trang thiết bị quân sự tối tân tại các
căn cứ - máy bay chiến đấu, tên lửa hành trình chống hạm, tên lửa phòng không tầm
xa và hơn thế nữa.
Mỹ trước đây đã tìm cách ngăn
chặn Trung Quốc thực hiện các bước kể trên. Trong những năm gần đây, Washington
đã khuyến khích Bắc Kinh và các bên yêu sách khác thông qua chính sách “3
không”: không cải tạo đảo thêm nữa, không xây dựng thêm cơ sở hạ tầng mới, và
không quân sự hoá các cơ sở hiện có. Nhưng Mỹ chưa bao giờ giải thích các hậu
quả nếu không tuân theo các yêu cầu này. Trong một vài trường hợp, Mỹ, cùng với
ASEAN, G-7, và EU đã chỉ trích các hành động của Trung Quốc. Nhưng Bắc Kinh
luôn lờ đi chỉ trích, và các nước khác cũng không gây sức ép về vấn đề này lâu.
Cần xem xét phản ứng của Bắc
Kinh đối với quyết định mang tính bước ngoặt đưa ra vào tháng 7 năm 2016 bởi
Toà trọng tài quốc tế thành lập theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển. Tòa
quyết định rằng hầu hết yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông là bất hợp pháp
dưới góc độ luật pháp quốc tế. Mỹ và các quốc gia khác đã kêu gọi Trung Quốc
tuân thủ phán quyết nhưng đã không thực hiện hành động nào để thực thi điều
này. Do đó Trung Quốc đã đơn giản chỉ nhún vai cho qua và tiếp tục quân sự hoá
các đảo và kiểm soát các vùng nước xung quanh. Mặc dù Mỹ đã tiếp tục thể hiện sức
mạnh đáng kể trong khu vực thông qua diễn tập và kiểm soát quân sự, Mỹ chưa bao
giờ thể hiện rõ cho Trung Quốc thấy những động thái đó có ý nghĩa gì. Các quan
chức Mỹ thường coi đó là các động thái biểu dương sự cương quyết. Nhưng họ chưa
bao giờ giải thích chính xác rằng Mỹ sẽ cương quyết làm gì. Với câu hỏi còn để
ngỏ, chính quyền Trung Quốc không thấy cần thiết phải đảo ngược tiến trình.
Với lý do tương tự, ý tưởng của
Tổng thống Mỹ Donald Trump trong việc khôi phục chiến lược “hoà bình thông qua
sức mạnh” của Tổng thống Ronald Reagan bằng việc tăng cường sức mạnh quân sự của
Mỹ sẽ không kéo được Trung Quốc trở lại. Vấn đề không phải Trung Quốc không e
ngại sức mạnh quân sự của Mỹ. Trái lại, Trung Quốc còn lo sợ sẽ chịu tổn thất nặng
nề nếu để xảy ra chiến tranh với Mỹ. Nhưng Trung Quốc cũng tin rằng Mỹ sẽ chỉ đặt
ra những cái giá nhỏ cho những hành động sai trái dừng lại dưới mức hung hăng
mà thôi. Bất kể bao nhiêu tàu chiến, máy bay chiến đấu, và vũ khí hạt nhân Mỹ
triển khai, tính toán đó sẽ không thay đổi.
Dám hành động
Để điều chỉnh sự hăng hái của
Trung Quốc, Mỹ cần đưa ra một cảnh báo rõ ràng: rằng nếu Trung Quốc tiếp tục
xây dựng các đảo nhân tạo hay triển khai các khí tài quân sự mạnh, như tên lửa
tầm xa hay máy bay chiến đấu, trên các đảo Trung Quốc đã xây dựng, Mỹ sẽ thay đổi
hoàn toàn chính sách đối với Biển Đông. Từ bỏ lập trường trung lập, Washington
sẽ ngừng kêu gọi kiềm chế và thay vào đó gia tăng nỗ lực trợ giúp các quốc gia
trong khu vực phòng vệ chống lại sự cưỡng ép của Trung Quốc.
Trong trường hợp này, Mỹ sẽ
làm việc với các quốc gia khác với các yêu sách trên biển để cải tạo đảo xung
quanh lãnh thổ đang chiếm đóng bởi các nước này và củng cố vững chắc các căn cứ.
Mỹ cũng sẽ triển khai tập trận chung và bán cho các nước này các loại vũ được
các chuyên gia quân sự biết đến như khả
năng “chống can thiệp”, cung cấp cho các quốc gia này các công cụ có giá cả phải
chăng để ngăn chặn sự cưỡng ép của quân đội Trung Quốc tại và xung quanh khu vực.
Những vũ khí đó bao gồm máy bay do thám không người lái, mìn biển, tên lửa chống
hạm trên đất liền, tàu tên lửa tấn công nhanh và các hệ thống phòng không di động.
Một chương trình như vậy sẽ
làm cho các nỗ lực thống trị biển và vùng trời phía trên biển của Trung Quốc trở
nên mạo hiểm hơn. Mỹ sẽ không nhắm tới việc tích luỹ đủ hoả lực tập thể để đánh
thắng Quân đội Giải phóng Nhân dân, hay thậm chí kiểm soát các vùng biển lớn;
thay vào đó, mục tiêu sẽ dành cho các đối tác trong khu vực có khả năng ngăn chặn
Trung Quốc tiếp cận các tuyến đường biển quan trọng, các bờ biển lân cận và các
nút thắt hàng hải.
Mỹ nên ngả sang các đồng minh
và đối tác đã có mối quan hệ an ninh chặt chẽ ở Đông Nam Á để được giúp đỡ. Nhật
Bản có thể đem lại những hợp tác có giá trị chặt chẽ với một vài quốc gia xung
quanh Biển Đông, do Nhật Bản đã coi Trung Quốc là mối đe doạ, và gần đây đang
phát triển hệ thống phòng thủ của riêng mình chống lại sự xâm phạm của Trung Quốc
đối với các đảo ngoài khơi của nước này tại Biển Hoa Đông. Trong khi đó,
Australia có mối quan hệ thân thiết với Indonesia và Malaysia hơn là Mỹ, cũng
tương tự như Ấn Độ với Việt Nam - quan hệ mà sẽ cho phép Australia và Ấn Độ
cung cấp sức mạnh quân sự đáng kể hơn cho các quốc gia này so với Washington.
Nếu Bắc Kinh từ chối thay đổi
lộ trình, Washington cũng nên đàm phán các thoả thuận mới với các quốc gia
trong khu vực để cho phép Mỹ và các lực lượng thân thiện khác ghé thăm hay
trong một số trường hợp, thường trú tại các căn cứ trên Biển Đông. Mỹ nên xem
xét tìm kiếm việc tiếp cận đảo Ba Bình (chiếm đóng bởi Đài Loan), đảo Thị Tứ
(chiếm đóng bởi Philippines), và đảo Trường Sa (chiếm đóng bởi Việt Nam) - các
thực thể thuộc quần đảo Trường Sa và là các đảo tự nhiên lớn thứ nhất, nhì, và
tư tại Biển Đông, theo thứ tự. Ngoài việc giúp Mỹ và các đối tác tập luyện cùng
nhau dễ dàng hơn, sở hữu các lực lượng trên các đảo này sẽ tạo ra các “dây chằng
mới” ngăn cản Trung Quốc, gia tăng nguy cơ cho các hoạt động cưỡng chế quân sự
của nước này.
Biện pháp răn đe mới này sẽ
đem đến cho Bắc Kinh một lựa chọn không dễ chịu: một mặt, Trung Quốc có thể
quân sự hoá thêm Biển Đông và phải đối đầu với các quốc gia có căn cứ và quân đội
hiện đại, được hậu thuẫn bởi Mỹ, hoặc, mặt khác, dừng việc quân sự hoá các đảo,
từ bỏ các kế hoạch cải tạo đảo, và bắt đầu làm việc nghiêm túc để tìm một giải
pháp ngoại giao.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét