Home »
Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017
Chín vấn đề cần nhìn lại trong ngoại giao Trung Quốc (phần 4)
9. Thay đổi
tham vọng độc chiếm Biển Đông, thừa nhận hiện trạng, gác tranh chấp cùng khai
thác, bảo vệ hòa bình và tự do hàng hải ở Biển Đông
Từ khi
Philippines tiến hành vụ kiện trọng tài Biển Đông và nhận được Phán quyết,
Trung Quốc ngày càng trở nên bị động hơn trên Biển Đông.
Chỉ vì chính
phủ mới tại Philippines thay đổi chính sách đương đầu với Trung Quốc của chính
quyền tiền nhiệm, tình hình Biển Đông mới không tiếp tục xấu đi.
Nhưng trên
phương diện pháp lý, trạng thái bị động của Trung Quốc vẫn không thay đổi.
Khách quan
mà nói, ngoài việc dùng vũ lực, Trung Quốc không thể thu hồi (chiếm) trọn Biển
Đông.
Một cuộc tập
trận bắn đạn thật Trung Quốc thực hiện trên Biển Đông, ảnh: Thời báo Hoàn Cầu.
Do đó với
các nước có yêu sách, phương thức giải quyết tranh chấp có tính đến lợi ích của
các bên một cách hợp lý, đó là thừa nhận hiện trạng, gác tranh chấp và cùng khai
thác tài nguyên, bảo vệ hòa bình ở Biển Đông.
Là nước lớn
nhất và thực lực mạnh nhất ở Biển Đông, về lý mà nói Trung Quốc nên khởi xướng
xây dựng một cộng đồng cùng khai thác các tài nguyên dầu khí ở Biển Đông và thiết
lập tỉ lệ ăn chia theo mức độ đóng góp của các bên.
Trước đây do
những rào cản kỹ thuật, các quốc gia trong khu vực không thể hợp tác với nhau
mà phải hợp tác với các công ty, doanh nghiệp đến từ các nước ngoài khu vực,
làm cho cục diện Biển Đông trở nên phức tạp.
Hiện tại
Trung Quốc đã có đủ trình độ kỹ thuật để thăm dò khai thác dầu khí biển sâu,
các bên ở Biển Đông hoàn toàn có thể xây dựng một cộng đồng cùng khai thác.
Ngoai ra, để
đảm bảo an toàn trên biển, dẹp nạn cướp biển và bảo vệ tự do hàng hải, Trung Quốc
cũng có thể dẫn đầu các bên yêu sách, thiết lập một cơ chế và đội ngũ thực thi
pháp luật đảm bảo an ninh trên Biển Đông.
Một khi cơ
chế và lực lượng này được thành lập, các nước ngoài khu vực không có cách nào
can thiệp vào tự do hàng hải ở Biển Đông, từ đó giảm thiểu tối đa các tranh chấp.
Tóm lại,
trên cơ sở thừa nhận lợi ích của các bên yêu sách ở Biển Đông, bắt đầu từ hợp
tác năng lượng và kinh tế, dần mở rộng sang lĩnh vực an ninh, chính trị;
Xây dựng cơ
chế, thiết lập một cộng đồng chung lợi ích ở Biển Đông thông qua các điều ước để
các bên đều hưởng lợi mới khiến họ không sợ Trung Quốc.
Như vậy mới
có thể thực sự gác lại các tranh chấp chủ quyền, biến Biển Đông thành vùng biển
của hòa bình và hợp tác.
Hòa bình, an
toàn và tự do hàng hải trên Biển Đông chính là bức bình phong lớn nhất bảo vệ lợi
ích của Trung Quốc. Mục tiêu cuối cùng của việc Trung Quốc tranh chủ quyền chẳng
phải là điều đó sao?".
Ý kiến đánh giá: Câu sau vả câu trước
Chúng tôi
cho rằng, bình luận của ông Đặng Duật Văn về chính sách ngoại giao của Trung Quốc
khiến nước khác "sợ chứ không nể" có thể nhận được sự đồng tình của
nhiều người.
Nhưng thực tế
theo quan sát của người viết, chúng tôi cho rằng người ta dè chừng, cảnh giác với
Trung Quốc nhiều hơn là "sợ".
Còn Trung Quốc
chưa khiến các nước khác nể phục là hoàn toàn đúng với thực tế.
Chuyện một
nhà ngoại giao hàng đầu Trung Quốc "nói thẳng vào mặt" người đứng đầu
ngành ngoại giao Singapore rằng:
"Trung
Quốc là nước lớn, còn các nước Đông Nam Á là nước nhỏ, đó là thực tế" hiển
nhiên đã để lại "dấu ấn khó quên" cho một nền ngoại giao thiếu chuyên
nghiệp.
Nhận xét của
ông Đặng Duật Văn về chủ nghĩa dân túy đang có xu hướng lái chính sách đối ngoại
của Trung Quốc có lẽ cũng được không ít quan điểm đồng tình.
Tuy nhiên
ông khuyên lãnh đạo Trung Quốc "nên an phận với vị thế anh hai, để Hoa Kỳ
làm anh cả" có lẽ chỉ phản ánh nhận thức, đánh giá của tác giả Đặng Duật
Văn về thực trạng, tương quan lực lượng Trung - Mỹ chứ không phải mục tiêu tối
hậu.
Nói cách
khác, theo ông Văn, vẫn chưa đến lúc Trung Quốc xưng bá thiên hạ, chứ không phải
Trung Quốc không muốn / không nên bá chủ thiên hạ.
Phần bình luận
của ông Đặng Duật Văn về chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông cùng một số khuyến
nghị đến Trung Nam Hải có lẽ là minh chứng rõ ràng cho lối tư duy "câu sau
vả câu trước".
Theo chúng
tôi, lập luận quan điểm của ông Đặng Duật Văn về Biển Đông ít nhất cho thấy 3
điều đáng chú ý.
Thứ nhất,
ông Đặng Duật Văn không hiểu gì về luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên
Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 đã quy định rất rõ ràng phạm vi các vùng biển
cũng như quyền lợi, nghĩa vụ của các quốc gia thành viên Công ước.
Chính vì
không hiểu gì, nên ông mới cổ súy xóa nhòa ranh giới các vùng biển được thiết lập
theo Công ước, biến vùng biển không tranh chấp thành có tranh chấp để rồi đòi
"gác tranh chấp, cùng khai thác".
Nói cách
khác, ông Văn đang cổ súy thực hiện yêu sách đường lưỡi bò phi lý bằng chiêu
"gác tranh chấp, cùng khai thác", nhưng lại nhân danh bảo vệ luật
pháp, công lý.
Thứ hai, ông
Đặng Duật Văn bác bỏ xu hướng chủ nghĩa dân túy đang lèo lái giới hoạch định
chính sách đối ngoại của Trung Quốc bằng chính những lập luận và ý tưởng mang đầy
màu sắc dân túy trong vấn đề Biển Đông.
Biển Đông
không phải ao tù của Trung Quốc để mà đòi "thu hồi". Nó cũng không phải
lãnh địa riêng của Trung Quốc để mà đòi đuổi các nước ngoài khu vực ra khỏi
đây.
Nếu chỉ dừng
lại ở nhận định này, và đừng lấy chuyện Biển Đông ra làm thí dụ thì có lẽ ông Đặng
Duật Văn đã vượt lên được những yêu sách tầm thường, bậy bạ và vi phạm luật
pháp quốc tế: Học giả Trung Quốc đề xuất phương án mới giải quyết tranh chấp Biển
Đông
"Ngoại
giao phục vụ cho lợi ích dân tộc là điều dễ hiểu, nhưng đừng để lợi ích dân tộc
mình lấn lướt lợi ích của các dân tộc, quốc gia khác.
Càng không
được nhân danh lợi ích dân tộc để theo đuổi chính sách ngoại giao cường quyền,
cưỡng bách.".
Nhưng bình
luận của ông về Biển Đông đã cho thấy hai khả năng:
Một là ông
không hiểu gì về bản chất các tranh chấp pháp lý mà phần lớn do Trung Quốc tạo
ra, cũng như cơ chế giải quyết nó một cách hòa bình, văn minh dựa trên luật
pháp quốc tế đương đại.
Do đó, những
bình luận của ông về Biển Đông chỉ là những tiếng nói từ vô thức tự động phát
ra, do bị nhồi nhét bởi những tuyên truyền sai sự thật từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường.
Đến nay ông
vẫn chưa tự vượt qua được, cho dù bản thân là một nhà "nghiên cứu độc lập".
Hai là, tư
cách "nhà nghiên cứu độc lập" phải chăng chỉ là cái vỏ để che mắt thế
gian, giúp ông tuyên truyền cho yêu sách đường lưỡi bò cho có vẻ khách quan, độc
lập với yêu sách của nhà nước Trung Quốc?
Chúng tôi
cho rằng, trong quan hệ đời thường giữa người với người, hay rộng hơn là quan hệ
giữa các quốc gia với nhau, điều đáng sợ không nằm ở hành vi giễu võ dương oai
của ai đó, mà là sự dối trá, giả tạo.
Thứ ba, Biển
Đông là nơi diễn ra sự tranh giành ảnh hưởng địa chiến lược, địa quân sự gay gắt
giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Ông Đặng Duật
Văn cổ súy Trung Quốc phải biết "phận làm em" trong quan hệ với Mỹ,
nhưng phải biết tìm cách vừa dụ vừa ép các nước láng giềng nhỏ hơn trong khu vực,
làm sao để họ "vừa sợ vừa nể" Trung Quốc như với Hoa Kỳ.
Rõ ràng điều
này chỉ thể hiện tư duy luẩn quẩn, mềm nắn rắn buông trong quan hệ quốc tế.
Nhân loại
văn minh và những người dân Trung Quốc tiến bộ ắt hẳn không bao giờ chấp nhận
tư duy học đòi kẻ cả như vậy.
Tuy đây là
tiếng nói của cá nhân một học giả, nhưng nó cũng phần nào phản ánh não trạng của
"một bộ phận không nhỏ" giới nghiên cứu Trung Quốc đương đại, trong
đó có cả những "nhà nghiên cứu độc lập" như ông Đặng Duật Văn.
Có thể ông
Văn không nhận tiền ngân sách chi trả cho những bài viết "nghiên cứu độc lập"
như vậy, hay nói cách khác ông độc lập về tài chính.
Nhưng rõ
ràng ông đang lệ thuộc về tư duy, tự biến mình thành công cụ cho những gì cổ hủ,
lạc hậu, đi ngược với xu thế văn minh của loài người khi bàn về quan hệ quốc tế.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét