Home » biendao
Thứ Tư, 3 tháng 10, 2018
Nỗ lực thành quốc gia mạnh từ biển
Nghị quyết số
09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 ra đời trong bối cảnh toàn Đảng,
toàn dân kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã trải qua 20 năm đổi
mới. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, có sự thay đổi cơ bản và
toàn diện, vị thế quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng cao.
Quan hệ kinh
tế của Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế được mở rộng thông qua thực
hiện các hiệp định đa phương, song phương góp phần tạo ra "thế" và
"lực" mới cho đất nước. Do đó, Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020
phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm
vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu cụ thể là xây dựng và
phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học-công nghệ, tăng cường
quốc phòng, an ninh, làm cho đất nước giàu mạnh từ biển.
Những kết quả
khả quan
Đánh giá về
10 năm thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
Trần Quý Kiên cho biết Sau khi Nghị quyết được ban hành, các cơ quan Trung ương
và địa phương đã tổ chức quán triệt và đề ra các giải pháp triển khai thực hiện.
Quốc hội đã thông qua các Luật Biển Việt Nam (năm 2012), Luật Tài nguyên, môi
trường biển và hải đảo (năm 2015), Bộ luật Hàng hải Việt Nam (năm 2015), Luật
Thủy sản (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cùng nhiều luật của các ngành, lĩnh vực
có nội dung liên quan đến biển, đảo.
Chính phủ
cũng đã ban hành hơn 10 Nghị định, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hơn 100 Quyết
định về quản lý nhà nước, thực hiện các chủ trương chính sách, chiến lược, quy
hoạch, chương trình phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh biển, đảo.
Nghị quyết
đã đề ra năm lĩnh vực ưu tiên phát triển là khai thác, chế biến dầu khí; khai
thác và chế biển hải sản; phát triển kinh tế hàng hải; phát triển du lịch và
nghỉ dưỡng biển; tăng xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp. Đồng thời, Nghị
quyết cũng định hướng xây dựng kết cấu hạ tầng biển, đảo.
Từ những chủ
trương, quyết sách của Đảng và Nhà nước, trong 10 năm qua các bộ, ngành từ
Trung ương đến các địa phương có biển đã nỗ lực cụ thể hóa Chiến lược biển vào
các chương trình, dự án phát triển kinh tế biển một cách cụ thể và đạt hiệu quả
thuyết phục.
Theo thống
kê của Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), số lượng khách quốc
tế đến Việt Nam đã tăng từ 2,14 triệu lượt người năm 2000 lên hơn 10 triệu lượt
năm 2016 và 12,9 triệu lượt năm 2017, tăng 6 lần trong vòng 17 năm.
Khách du lịch
nội địa cũng tăng mạnh liên tục trong suốt giai đoạn vừa qua, từ 11,2 triệu lượt
năm 2000 đến 62 triệu lượt năm 2016 và 73,2 triệu lượt năm 2017. Trong đó,
khách du lịch đến 28 tỉnh, thành phố ven biển trong năm 2017 ước đạt khoảng 60
triệu lượt (bao gồm cả khách du lịch trong nước và quốc tế).
Theo thống
kê của Tổng cục Du lịch, sự đóng góp của du lịch vào nền kinh tế Việt Nam giai
đoạn vừa qua rất đáng khích lệ. Tổng thu trực tiếp từ khách du lịch năm 2017 đạt
510.900 tỷ đồng (tương đương khoảng 22,6 tỷ USD). Trong đó doanh thu du lịch của
28 tỉnh, thành phố ven biển chiếm khoảng 70% tổng doanh thu toàn ngành.
Du lịch đã
đóng góp trực tiếp và lan tỏa sang các ngành kinh tế liên quan khác, góp phần
thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế. Với tính chất là một ngành kinh tế tổng hợp mang
tính liên ngành, liên vùng, hoạt động du lịch phát triển đã kéo theo sự phát
triển của các ngành, lĩnh vực liên quan như vận chuyển, thương mại, dịch vụ,
truyền thông, bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, y tế... Du lịch góp phần
vào xóa đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Lĩnh vực
kinh tế hàng hải đã có bước phát triển đáng kể, giá trị sản lượng của ngành vận
tải biển, dịch vụ cảng biển và đóng tàu đã liên tục gia tăng, với tốc độ tăng
trong giai đoạn 2007-2010 là 22%/năm, giai đoạn 2011-2015 là 13%/năm. Tuy vậy,
tỷ trọng đóng góp chung của kinh tế hàng hải vào GDP cả nước còn rất nhỏ và có
xu hướng giảm, với mức 1,05% vào năm 2010, 0,98% vào năm 2015 và 0,97% vào năm
2017.
Đội tàu biển
trong nước tính đến hết tháng 11/2017 có tổng trọng tải khoảng 7,8 triệu tấn, đứng
thứ 4 trong ASEAN và thứ 30 trên thế giới. Sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống
cảng biển tăng đều theo các năm (năm 2015 đạt 427,3 triệu tấn thì đến năm 2017
đạt khoảng 511,6 triệu tấn).
Sau 10 năm
thực hiện Chiến lược biển, toàn ngành đã có những nỗ lực rất lớn trong công tác
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và dịch vụ logistics, đảm bảo nhu cầu lưu
thông hàng hóa bằng đường biển với mức tăng trưởng hàng hóa hàng năm từ 10-20%.
Nhiều cảng biển có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải 200.000 tấn.
Đối với lĩnh
vực xây dựng các khu kinh tế ven biển, tính đến hết năm 2017, cả nước đã có 17
khu kinh tế ven biển được thành lập, với tổng diện tích gần 845.000ha, thu hút
khoảng 78,6 tỷ USD vốn đầu tư. Bên cạnh đó, cả nước có 58 khu công nghiệp tập
trung ven biển, với tổng diện tích đất công nghiệp gần 13.600ha.
Các khu kinh
tế ven biển đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, tăng thu ngân sách nhà
nước, giải quyết việc làm. Năm 2016, các khu kinh tế ven biển đạt tổng doanh
thu khoảng 8 tỷ USD, xuất khẩu đạt hơn 5 tỷ USD, đóng góp vào ngân sách nhà nước
khoảng 30.000 tỷ đồng. Các khu kinh tế ven biển tạo việc làm trực tiếp cho khoảng
130.000 lao động.
Cùng với sự
phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, các đô thị cũng được hình
thành cung cấp nhà ở, dịch vụ xã hội cho lượng lớn người lao động làm việc
trong các trung tâm kinh tế tập trung này. Một số khu nghỉ dưỡng, khu nhà ở hiện
đại được xây dựng tại các khu kinh tế ven biển, góp phần phát triển du lịch và
cung cấp chỗ ở thường trú, tạm trú cho các chuyên gia, nhà quản lý doanh nghiệp
đến làm việc trong các khu kinh tế. Các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển
đã đóng góp nhất định vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm, góp phần
tăng nhanh quá trình đô thị hóa ven biển.
Tăng trưởng
còn thiếu bền vững
Tuy 10 năm
qua, công tác quản lý và khai thác tài nguyên, môi trường biển đã đạt được những
kết quả nhất định, song một số lĩnh vực vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng. Tổng cục
Biển và Hải đảo Việt Nam đang phối hợp với Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu
tư) để tính toán các chỉ số GDP, GRDP, thu nhập bình quân đầu người.
Kết quả bước
đầu cho thấy trong 10 năm qua, đóng góp của kinh tế biển và ven biển vào GDP cả
nước từ 48% năm 2005, giảm xuống còn 40,73% năm 2010 và năm 2017 ước đạt
30,19%. Thu nhập bình quân đầu người của người dân ven biển có tăng, nhưng
không cao hơn quá nhiều so với mức tăng trung bình của cả nước. Thu nhập bình
quân đầu người của người dân sống ở 28 địa phương có biển đã tăng gấp 4,84 lần
trong giai đoạn 2006-2016, nhưng vẫn thấp hơn so với cả nước về số tuyệt đối:
Năm 2006 là 627 USD/người/năm so với mức 637 USD của cả nước, năm 2016 là 3035
USD/người/năm so với mức 3049 của cả nước.
Đối với lĩnh
vực khai thác và chế biến dầu khí, trong 10 năm qua ngành dầu khí đã có nhiều nỗ
lực trong thăm dò, khai thác các mỏ dầu, khí mới (bao gồm cả đầu tư các dự án dầu
khí ở nước ngoài) và đẩy mạnh đầu tư các tổ hợp chế biến dầu, khí quy mô lớn.
Tuy vậy, đóng góp của ngành dầu khí vào kinh tế cả nước đã giảm rõ rệt.
Theo Tổng cục
Thống kê, đóng góp của ngành dầu khí (bao gồm cả thăm dò, khai thác và chế biến
dầu, khí) vào GDP khá cao và ổn định trong giai đoạn từ 2007-2010, với mức đóng
góp trung bình là 10,83%; sau đó giảm xuống mức trung bình 7,21% trong giai đoạn
2010-2014, đến năm 2015 mức đóng góp này chỉ còn 3,79% và năm 2017 là 2,76%.
Khai thác và
chế biến hải sản đã tăng 50% trong 10 năm từ 2,07 triệu tấn năm 2007 lên 3,07
triệu tấn năm 2016 và 3,19 triệu tấn năm 2017. Công nghiệp chế biến thủy sản của
Việt Nam hiện nay thuộc loại khá trên thế giới, có 500 cơ sở đạt tiêu chuẩn xuất
khẩu vào các thị trường Nhật Bản, Mỹ, EU. Giá trị xuất khẩu thủy sản những năm
gần đây có xu hướng tăng, năm 2010 là 6,03 tỷ USD, năm 2016 đạt 7,05 tỷ USD.
Tuy vậy, theo báo cáo của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, tỷ trọng đóng góp
của ngành vào GDP chưa cao, đạt trung bình 1,99% giai đoạn 2007-2010, 1,91%
giai đoạn 2011-2015 và 1,8% trong hai năm 2016-2017, thể hiện xu hướng giảm
trong thời gian gần đây.
Trong những
năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều quy định phát triển khai thác hải sản như hỗ
trợ vay vốn tín dụng để đóng mới tàu cá khai thác xa bờ; hỗ trợ chi phí nhiên
liệu; hỗ trợ bảo hiểm; hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch; khắc phục rủi ro,
thiên tai; hỗ trợ thiết bị thông tin, giám sát hoạt động của tàu cá trên biển...
tạo cơ sở phát triển nhanh đội tàu đánh bắt xa bờ, tăng nhanh sản lượng, cơ sở
hạ tầng (cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá)./.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét