Home » biendao
Thứ Ba, 16 tháng 7, 2019
Một thập kỷ đầy rẫy bất ổn ở Biển Đông (Phần 3)
Phản ứng của các nước
Rõ ràng, chính sách và hành động đơn phương của Trung Quốc ở Biển Đông đã khiến các quốc gia trong khu vực Biển Đông thực sự lo lắng và phải tìm cách đối phó để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng trên biển của mình. Đầu tiên đó là việc gia tăng chi tiêu quốc phòng nhằm nâng cao năng lực phòng thủ và bảo vệ biển của mình trước các thách thức mới ngày càng phức tạp và hiện hữu hơn, nhất là khả năng xảy ra các xung đột trên biển với Trung Quốc. Số liệu cho thấy, trong vòng 10 năm qua, ngân sách quốc phòng của các quốc gia trong khu vực đã gia tăng một cách đáng kể, trong đó ngân sách giành cho hải quân và các lực lượng chấp pháp trên biển chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi tiêu quốc phòng. Song song với việc gia tăng mua sắm, đóng mới các loại trang thiết bị vũ khí như tàu ngầm, tàu chiến, hệ thống tên lửa, việc cơ cấu lại tổ chức và hoạt động của các lực lượng trên biển cũng có bước phát triển mới, trong đó vai trò của lực lượng hải quân và bảo vệ bờ biển (Coast guard) không ngừng được đề cao.
Bên cạnh việc gia tăng chi tiêu quốc phòng, các nước trong khu vực đều có sự điều chỉnh chính sách đối với vấn đề Biển Đông theo hướng chủ động, tích cực và cứng rắn hơn. Điều này thể hiện ở các mặt sau: i) các quốc gia trong khu vực đều nhấn mạnh và đề cao vai trò của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển 1982, coi đây là nền tảng để các quốc gia trong và ngoài khu vực tiến hành các hoạt động liên quan đến biển cũng như là ‘thước đo” để đánh giá sự phù hợp của các hành động của các bên liên quan. Điều này được thể hiện rõ trong toàn bộ các tuyên bố chính sách của các nước trong khu vực, trên cả bình diện đơn phương, song phương và đa phương;ii) Các quốc gia trong khu vực đã thúc đẩy mạnh việc hình thành các cơ chế đối thoại, hợp tác góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực như là thông qua Quy tắc hướng dẫn thi hành Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (tháng 7/2011) và chính thức đàm phán về Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC), Diễn đàn biển ASEAN và Diễn đàn biển ASEAN mở rộng…; iii) Chủ động đưa ra các sáng kiến như xây dựng Biển Đông thành khu vực Hòa bình, Tự do, Hữu nghị và Hợp tác do Philippines đưa ra tháng 9/2011, thiết lập đường dây nóng giữa các quan chức cấp cao ASEAN - Trung Quốc để giải quyết trường hợp khẩn cấp trên biển và Tuyên bố chung về áp dụng các quy định tránh va chạm trên biển ASEAN - Trung Quốc (2016); iv) Thông qua các chính sách, chiến lược biển như Chiến lược Biển Việt Nam (2009), Chiến lược “Trục biển toàn cầu” của Indonesia (2016) hoặc đưa nội dung về bảo vệ quyền lợi biển thành một bộ phận quan trọng của Chiến lược Quốc phòng (Malaysia; Singapore…).
Đối với các nước ngoài khu vực, các hành động đơn phương của Trung Quốc ở Biển Đông đã đưa đến các thách thức nghiêm trọng đối với khả năng tiếp cận và tính ổn định của khu vực. Nói một cách khác, quyền tự do hàng không, hàng hải và trật tự pháp lý trên biển ở khu vực Biển Đông đã bị đe dọa và phá hoại bởi các hoạt động của Trung Quốc, cùng với đó là các hành vi cưỡng ép của Trung Quốc đối với các nước trong khu vực trong các vấn đề trên biển, trong đó có các nước đồng minh của Mỹ. Điều này đã buộc các nước, đặc biệt là Mỹ và các nước đồng minh điều chỉnh chính sách theo hướng phản ứng cứng rắn và quyết liệu hơn trước việc Trung Quốc làm gia tăng căng thẳng, phá vỡ nguyên trạng và “quân sự hóa” Biển Đông. Nếu như trước đây, đối với chính sách và hành vi trên Biển Đông của Trung Quốc, Mỹ chỉ tập trung vào việc phát biểu chỉ trích, gia tăng can dự và cố gắng định hình hành vi cư xử của Trung Quốc thông qua các biện pháp “mềm” thì từ 2015 cho đến nay đã có bước chuyển mạnh. Minh chứng rõ ràng nhất là sau nhiều năm, nhất là kể từ 2015 đến nay, Mỹ đã gia tăng mạnh các hoạt động quân sự mang tính “thách thức” Trung Quốc như trên thực địa như đã tiến hành 17 chiến dịch tự do hàng hải ở Biển Đông (năm 2015: 01; 2016: 03; 2017: 04; 2018: 06 và 5 tháng đầu năm 2019: 03), cho máy bay ném bom chiến lược B52 nhiều lần bay quanh các đảo Trung Quốc chiếm đóng trái phép; khẳng định coi Trung Quốc là đối thủ và thách thức số 1 của Mỹ về địa chiến lược và lên án trực diện hành động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông và nhấn mạnh Trung Quốc sẽ phải đối diện với các “hậu quả nặng nề” do hành động này và coi Trung Quốc đã “nuốt lời hứa” về việc này, chỉ trích toàn diện các chính sách của Trung Quốc…
Bên cạnh Mỹ và các nước đồng minh trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương như Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, các nước lớn khác trong và ngoài khu vực như Ấn Độ, Anh, Pháp, Nga cũng gia tăng hoạt động của tàu thuyền quân sự, phương tiện bay và sự hiện diện quân sự ở khu vực Biển Đông. Nhiều chiến dịch tự do hàng hải, tập trận quân sự ở Biển Đông đã được Anh, Pháp, Úc, Nhật tự tiến hành. Một quốc gia vốn khá “cẩn trọng” trong cả lời nói và hành động trong mối quan hệ với Trung Quốc là Hàn Quốc cũng đã tự tiến hành các hoạt động tự do hàng hải của tàu quân sự ở Biển Đông.
Có thể nhận thấy, với sự can dự ở mức độ cao của các nước trong và ngoài khu vực trong vấn đề Biển Đông, sự gia tăng hiện diện của các phương tiện và lực lượng quân sự trong khu vực, nguy cơ cọ sát, xung đột quân sự ngày càng hiện hữu với những hệ quả khôn lường cho cả các quốc gia trong và ngoài khu vực.
(còn nữa)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét