Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân
Dân chủ là bản chất của
chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội;
đồng thời, là phương thức để thực hiện quyền lực của nhân dân trong
quản lý Nhà nước và tổ chức đời sống xã hội. Nội dung phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện đầy đủ
trong Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII của Đảng, là quan điểm nhất
quán của Đảng ta.
Nắm vững quan điểm chủ
nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò của quần chúng nhân dân trong quá trình
phát triển của mỗi cộng đồng quốc gia - dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng, dân chủ
có nghĩa là “dân là chủ” và “dân làm chủ”. Dân là chủ chỉ rõ vị thế của dân,
dân làm chủ chỉ rõ trách nhiệm của dân trong đời sống xã hội. Vị thế và trách
nhiệm của nhân dân đã được thiết kế, đưa vào Hiến pháp và hệ thống pháp luật của
Nhà nước ta; đồng thời, được bảo vệ và bảo đảm thực thi trong thực tế. Tiếp cận
dưới góc độ quyền con người thì dân chủ là một thuộc tính quyền con người trong
xã hội, là khát vọng ngàn đời của con người. Xây dựng, củng cố và phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là để đáp ứng khát vọng của nhân dân, đó còn là
sự phản ánh bản chất của chế độ chính trị ở Việt Nam, được thiết lập từ khi nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời,
ngày 02/9/1945 đến nay.
Trên cơ sở đánh giá tổng
quát kết quả củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời, bám sát Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011), Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII của Đảng đã trình
bày khái quát những quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp rất cơ bản, có tính chất
chỉ đạo thực hiện phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân, trên một số nội dung chủ yếu sau:
1. Tiếp tục cụ thể hóa,
hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Hiến pháp năm 2013; thực hiện có
hiệu quả trong thực tế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ cơ sở theo
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Hình thức dân chủ đại diện là hình thức phổ biến ở nước ta, có trong cơ chế vận
hành hoạt động của hệ thống chính trị các cấp, nhất là đối với chính quyền Nhà
nước; còn hình thức dân chủ trực tiếp được thể hiện nhiều ở cấp cơ sở. Do vậy,
việc cụ thể hóa vấn đề dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ cơ sở
theo Cương lĩnh chính trị của Đảng và Hiến pháp năm 2013 là hết sức cần thiết.
Đối với cấp cơ sở, vấn đề dân chủ đã được Đảng và Nhà nước ta chú ý từ rất sớm,
ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về
xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở; ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội (khóa XI) ban hành Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,
v.v. Kết quả thực hiện trên thực tế những năm qua đã hạn chế được tình trạng
nhũng nhiễu, tiêu cực ở cơ sở, tập hợp và khơi dậy sức dân, củng cố và phát triển
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền làm chủ của người dân ngày càng được phát
huy. Kết quả xây dựng cuộc sống ở cơ sở trong những năm qua là biểu hiện sinh động
của việc thể chế hóa và thực hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”; đồng thời, từng bước đẩy mạnh thực hiện “dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Qua đó, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; trở thành
động lực để tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh tổng hợp,
phát huy sức sáng tạo trong nhân dân, góp phần quan trọng vào thực hiện đổi mới
hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, việc thực hiện dân chủ cơ sở
vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót: quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn
bị vi phạm, biểu hiện rõ nhất là tình trạng bức xúc của nhân dân dẫn tới các vụ
việc khiếu kiện đông người diễn biến ngày càng phức tạp, trong đó có khoảng 70%
liên quan đến vấn đề đất đai do chính quyền các cấp không giải quyết tốt; một bộ
phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến
nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời những quyền lợi hợp pháp, nguyện vọng
chính đáng của người dân.
Để dân chủ được bảo vệ,
bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, cần tiếp tục cụ thể
hóa, rà soát, sơ kết, tổng kết, bổ sung và hoàn thiện các thiết chế về xây dựng
và phát huy dân chủ nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng. Bởi, cơ sở là cấp cuối
cùng trong bộ máy hệ thống chính trị ở nước ta; thời gian qua, đã có một số
hình thức thực hành dân chủ trực tiếp, cần phải tiếp tục thực hiện theo lộ
trình vững chắc và hiệu quả để từng bước đẩy mạnh dân chủ trực tiếp; có thể tiến
hành thí điểm, khi đem lại hiệu quả một cách chắc chắn, được tổng kết, rút kinh
nghiệm, có căn cứ lý luận và thực tiễn phù hợp thì áp dụng rộng rãi ở cơ sở
trong cả nước. Như vậy, nếu áp dụng hình thức dân chủ trực tiếp đúng, phù hợp
thì việc kiểm tra, giám sát của nhân dân sẽ có hiệu quả hơn, điều đó giúp cho hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh hơn và dân chủ sẽ được phát huy cao hơn,
quyền làm chủ của nhân dân được bảo vệ và bảo đảm tốt hơn. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng, với sự phát triển
rất mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện nay, càng cần phải chú ý hơn nữa hình
thức dân chủ trực tiếp; đây là biểu hiện rõ nhất quyền lực tối cao của người
dân trong mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, mọi quy định và hành động của tổ
chức chính trị và chính trị - xã hội nếu vi phạm quyền làm chủ của dân, dù là
nhỏ cũng sẽ trở thành lực cản trong thực hiện phát huy dân chủ, cần phải nghiêm
túc kiểm điểm, có biện pháp khắc phục kịp thời và triệt để.
2. Các tổ chức trong hệ
thống chính trị; đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức phải nêu gương
thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức. Đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải tạo nền tảng chính trị, pháp lý để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ; hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo phải tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ phải được thể hiện bằng
thể chế và thực hành trong thực tế. Điều đó đòi hỏi dân chủ phải được thể hiện,
thể chế hóa trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Việt Nam. Đối với cấp cơ
sở, đó là những quy định đúng đắn, phù hợp trong nội bộ nhân dân ở các cộng đồng
dân cư. Trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay, yêu cầu xây dựng, củng cố và
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, trước tiên phải bắt đầu từ dân chủ trong Đảng,
còn nếu dân chủ trong Đảng không được bảo đảm thì không thể phát huy dân chủ
trong xã hội. Do vậy, cán bộ, đảng viên của Đảng và đội ngũ cán bộ trong bộ máy
của hệ thống chính trị phải là gương sáng, gương mẫu về thực hành dân chủ, bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước với bản chất và nguồn gốc xuất xứ, vốn
có chức năng cai trị của một giai cấp, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, thì
việc thể hiện điều đó bằng chức năng quản lý, quản trị, phục vụ nhân dân. Trong
đó, Chính phủ với vị trí, vai trò là cơ quan hành chính cao nhất trong quyền lực
Nhà nước, phải trở thành Chính phủ kiến tạo, đề ra và tổ chức thực hiện thắng lợi
chính sách quốc gia trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng và nghị quyết của
Quốc hội.
Phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa còn phụ thuộc vào sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức, của thành viên trong tất cả các tổ chức của hệ thống chính trị. Các tổ chức
đảng, cũng như các tổ chức và từng thành viên trong bộ máy của hệ thống chính
trị phải có trách nhiệm nêu gương; trong đó, cán bộ chủ chốt phải khẳng định được
trên thực tế bằng hành động nêu gương của mình. Không để xảy ra hiện tượng xa
dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng; luôn giáo dục, tổ chức, giác
ngộ nhân dân, không theo đuôi quần chúng. Chống thái độ mị dân, lừa dân, dọa nạt
dân, chạy theo lợi ích tầm thường,… những hiện tượng đó là lực cản, thậm chí là
kẻ thù của dân chủ.
Nhân dân vốn được thể
chế chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta nâng lên ở vị thế là người chủ và trao
cho trách nhiệm người làm chủ, nên cần có chính sách giáo dục, nâng cao ý thức
làm chủ của người dân. Dân chủ bao giờ cũng phản ánh cái cốt vật chất chế độ
chính trị của quốc gia, tức là phản ánh trình độ và tính chất của xã hội. Mà
cái cốt vật chất ấy là sự tổng hòa của nhiều yếu tố; trong đó, Đảng ta, với tư
cách là người cầm quyền, chịu trách nhiệm lớn nhất và chịu trách nhiệm cuối
cùng trong xã hội, phải luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để ngang tầm yêu cầu nhiệm
vụ, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân.
3. Đề cao vai trò chủ
thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong
toàn bộ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tính tích cực chính trị -
xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức. Nhân
dân là người chủ đất nước, giữ vị trí trung tâm của quyền lực, mọi quyền lực tối
cao đều thuộc về nhân dân. Do đó, cần vận động nhân dân tham gia xây dựng hệ thống
chính trị, các thiết chế bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Điều
này đã được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật, chỉ thị, nghị quyết của Đảng
và quy định của các tổ chức chính trị - xã hội. Vì vậy, cần tiếp tục rà soát, cụ
thể hóa để nhân dân ngày càng phát huy tính tích cực trong tham gia hoạch định
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật, các quy định quản lý của
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Mọi hoạt động của
đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức cần đặt dưới sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ
của nhân dân; do vậy, cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia công
việc quan trọng này. Sức mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị, sự
trong sạch, vững mạnh của đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức chính là lấy từ
sức mạnh của nhân dân; mọi thái độ coi thường dân, hời hợt trong công tác dân vận,
cũng như tinh thần kém trách nhiệm đối với dân sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường.
Hồ Chí Minh cho rằng: “quần chúng tinh lắm, quần chúng biết phân biệt thật giả.
Dân sợ mình thù mà không dám nói đó thôi”1 và “dân biết nhiều việc mà các cấp
lãnh đạo không biết”2. Điều đó còn được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú
Trọng, khẳng định: “Phải dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng nhân
dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được;
ngược lại, cái gì nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì
chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm”3 và
“ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu
làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”4.
4. Xử lý kịp thời,
nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ gây rối nội bộ, làm mất ổn
định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại quyền làm chủ của
nhân dân. Phải bảo đảm quyền làm chủ thực sự của người dân trên mọi phương diện,
cả về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; đồng thời, dân chủ phải đi liền với
kỷ cương. Kỷ cương/kỷ luật là biểu hiện của tự do thực sự, đúng theo nghĩa vận
hành trong một xã hội lành mạnh. Dân chủ không có gì chung với độc tài. Điều đó
có nghĩa là dân chủ không phải là tự do tuyệt đối, mà phải trong khuôn khổ nhất
định, phù hợp với quy luật của xã hội. Tự do như thế là tự do nhận thức và hành
động theo cái tất yếu, tức là suy nghĩ và hành động theo đúng quy luật khách
quan. Nếu làm trái với quy luật khách quan, trái với những quy ước đúng của cộng
đồng quốc gia - dân tộc, không những làm ảnh hưởng tiêu cực đến tự do của những
người xung quanh, của toàn xã hội, mà còn tự làm mất tự do của chính mình. Cần
phải phê phán nhận thức và biểu hiện phản dân chủ, như: “tự do vô chính phủ”,
“tự do vô kỷ luật”. Hồ Chí Minh đã đề cập một cách rất biện chứng quyền tự do
trong quan hệ với vấn đề chân lý: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải
được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến
của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ
của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, tìm thấy chân lý, lúc đó quyền
tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi
cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức
là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục
tùng chân lý”5.
Hiện nay, khi dân chủ
được mở rộng, bảo đảm và phát huy; với sự phát triển của công nghệ thông tin,
internet, mạng xã hội tác động không nhỏ tới hình thức thể hiện tự do dân chủ của
con người, nhất là trên không gian mạng có cả mặt tích cực và tiêu cực, các thế
lực thù địch, cơ hội chính trị, phần tử chống đối lợi dụng tự do, dân chủ để
lôi kéo, kích động người dân thực hiện nhiều hoạt động làm tổn hại đến nền dân
chủ đang được xây dựng, củng cố và phát triển. Do đó, cùng với phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn với kỷ cương, pháp luật, không cho phép ai lợi dụng
dân chủ để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Quyền dân chủ, quyền tự do
ngôn luận bao giờ cũng phải đi liền với trách nhiệm, nghĩa vụ công dân. Đây
chính là nhận thức lành mạnh cho tự do dân chủ và là điều cần thiết để bảo đảm
dân chủ của xã hội vì lợi ích quốc gia, bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng
dân cư.
Đại hội XIII của Đảng
là dịp sinh hoạt dân chủ cao nhất, tập trung nhất của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân. Với những kết quả đã đạt được, Đảng sẽ tiếp tục lãnh đạo phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét